Bài huấn luyện
hàng tháng của Ủy Ban Giáo dân (BÀI 5)
PHẦN TU ĐỨC
SỐNG MẦU NHIỆM
RỬA CHÂN:
MẦU NHIỆM HIỆP
THÔNG (Ga 13,1-20)
***
Xây
dựng cộng đoàn Kitô hữu sống “yêu thương nhau”, đó là một sứ mạng
lớn lao mà hẳn là từng thành viên Hội đồng mục vụ chúng ta cảm nghiệm được sức
nặng và tính thách đố. Hành trình dựng xây cộng đoàn như thế chỉ có thể được
thực hiện trong năng động yêu thương và cung cách phục vụ của chính Đức Giêsu,
cách đặc biệt qua mầu nhiệm rửa chân.
Vì sao lại rửa chân? Hình ảnh bàn chân gợi lên cho chúng
ta nhiều ý nghĩa. Chúng ta thường dùng “đôi chân” để làm gì? Bàn chân mang ý
nghĩa nào? Đó là nơi thấp nhất, bẩn-nặng mùi, và mang nhiều dấu ấn cuộc đời.
Bàn chân đưa chúng ta đi trên mọi ngõ ngách đời sống, đến mọi nơi, thánh thiêng
và phàm tục…
Việc Đức Giêsu rửa chân cho các môn đệ được hiểu như bài
học thực hành về việc phục vụ khiêm tốn. Người rửa chân cho từng môn đệ của
Người; Người tự làm lấy tất cả. Nhưng không chỉ như thế, chúng ta được mời gọi
hiểu mầu nhiệm rửa chân dưới ánh sáng mầu nhiệm Thánh Thể; và trong ánh sáng
này, chúng ta nhận ra rửa chân là một hành động mang tầm mức Thánh Thể. Cả hai
cử hành đều diễn tả tình yêu tuyệt đỉnh: “Người yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế
gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (c. 1).
“Cũng đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời
chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: Anh em hãy cầm lấy, đây là mình
Thầy” (Mc 14, 22);
“Trong một bữa ăn, Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi
áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng.5 Rồi Đức Giêsu đổ nước
vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ …” (Ga 13, 4-5).
Hành động rửa chân của Đức Giêsu tương ứng với hành động
“trao
Bánh” cho các môn đệ Người. Qua mầu nhiệm Thánh Thể, Đức Giêsu trở
nên Bánh trao ban sự sống; qua mầu nhiệm rửa chân, Người trở nên người phục vụ
bàn ăn, trao ban chính mình, hành động đưa đến hiệu quả “chung phần
với Thầy”. Như thế, việc Đức Giêsu rửa chân cho các môn đệ không
chỉ là một mẫu gương phục vụ, nhưng còn là một hoạt động đưa đến mầu nhiệm hiệp
thông với Người: “Nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy”
(c. 8). Như chính hành vi rửa sạch gợi ra, qua hành động rửa chân, Đức Giêsu
làm cho các môn đệ trở nên thanh sạch, làm cho chúng ta nên công chính, bằng
chính ngôi vị của Người, bằng sự sống-bằng chính Thánh Thể Người.
Không dễ dàng gì khi để Đức Giêsu rửa chân cho mình như
thế. Thánh Phêrô cũng gặp thách đố này, vì ông khép kín trong cách hiểu của
mình. Đức Giêsu mặc khải cho ông lời hứa chung phần, dầu vậy, việc rửa chân và
hiệu quả “chung phần” này vẫn khó hiểu, khó đón nhận. Vì thế, Đức
Giêsu nói với Phêrô: “việc Thầy làm bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này
anh sẽ hiểu”.
Như thế, rửa chân không chỉ mang ý nghĩa hạ mình phục vụ,
nhưng còn mang ý nghĩa đưa đến hiệp thông-“chung phần” với Đức Giêsu. Chính vì
thế, từng người chúng ta phải được Đức Giêsu rửa chân, phải kinh nghiệm mình
được Đức Giêsu đích thân “rửa chân” như thế nào, khi đó chúng ta
mới có lòng ước ao và có sức mạnh nội tâm để “rửa chân” cho
nhau, nghĩa là phục vụ và xây dựng cộng đoàn hiệp thông. Chớ gì chúng ta được
chinh phục bởi “tình yêu đến cùng” của Đức Giêsu, để Người rửa chân cho
mình, nhờ đó chúng ta có thể rửa chân cho nhau qua việc phục vụ.
Hồi tâm.
Tôi cần thay đổi trong điều gì trong đời sống và công
việc cá nhân?
Trong Hội đồng Mục vụ Giáo xứ và trong giáo xứ, những
lãnh vực nào hay những tương quan-mối liên hệ nào tôi cần quyền năng Chúa chữa
lành, cần Đức Giêsu “rửa chân”-thanh tẩy và biến đổi?
Tôi có dự tính như thế nào để canh tân đời sống-cung cách
ứng xử cá nhân và tương quan mục vụ, để nỗ lực phục vụ?
PHẦN QUẢN TRỊ MỤC VỤ
“GỌI THỢ LẠI MÀ
TRẢ CÔNG CHO HỌ…”
***
“Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: ‘Anh gọi
thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những
người vào làm trước nhất’” (Mt 20,8)
Dẫn vào
Ngày 24-9-2018 vừa qua, tại Trung tâm Mục Vụ Giáo Phận Mỹ
Tho, dịp Hội nghị Thường Niên của Hội đồng Giám Mục Việt Nam Kỳ II Năm 2018,
trong diễn từ chào mừng Đức Tổng Giám mục Marek Zalewski, Sứ thần Tòa Thánh tại
Singapore, đồng thời là Đại diện Không Thường Trú tại Việt Nam, Đức Tổng Giám
mục Giu-se Nguyễn Chí Linh, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, đã phát biểu:
“Sự hiện diện của Đức Tổng là một bằng chứng cho mối dây hiệp thông hữu hình
giữa Tòa Thánh và Giáo hội Việt Nam…”.[1]
Trong phần cuối của diễn từ, Đức Tổng Giám mục Giu-se
cũng thưa với các thành viên của hội nghị về vai trò của các ngài, những mục
tử, những “nhà quản lý”: “… điều chắc chắn là tất cả những gì chúng ta sẽ thảo
luận và quyết định trong kỳ họp này đều nhằm mục đích lợi ích của Dân Chúa trên
quê hương Việt Nam. Cũng vì thế, hội nghị của chúng ta mang chở niềm hy vọng
cho các Ki-tô hữu Việt Nam, cho các giáo phận và cho các dòng tu nam nữ”.[2] Theo đó, chúng ta có thể suy luận về
lãnh đạo mục vụ, về quản trị trong Giáo hội từ việc “… gọi thợ lại mà trả công”
và “bắt đầu từ những người vào làm sau chót”.[3]
Gọi thợ lại mà trả công cho họ…
“Gọi thợ lại mà trả công cho họ…” được trình bày trong tập
Gợi ý cho một quy chế hội đồng mục vụ giáo xứ của Ủy ban Giáo Dân (HĐGMVN)
(2010), nhắc đến Thư Thánh Phao-lô Tông Đồ gửi Ti-mô-thê.[4] Theo đó, người phục vụ Nước Chúa
không mong chờ bổng lộc trần gian như danh vọng, chức quyền…. Người phục vụ Tin
Mừng cần có tinh thần vô vị lợi và biết kiên trì hoạt động theo gương Thánh
Tông Đồ Phao-lô.[5] Tuy nhiên, để có thể: (1*) nắm bắt
tình hình chung của giáo xứ, nhất là hiện trạng đời sống đức tin và phong hóa
trong giáo xứ; (2*) cộng tác chặt chẽ và thường xuyên với linh mục chính xứ
trong việc quản trị giáo xứ; (3*) có uy tín phục vụ và hứng khởi tham gia công
việc Hội Thánh, các thành viên hội đồng mục vụ giáo xứ có thể được hưởng một số
quyền lợi khi còn sống và khi qua đời.
Quyền lợi khi còn sống
Các thành viên hội đồng mục vụ giáo xứ khi còn sống,
được: (1) học hỏi, huấn luyện, bồi dưỡng cách hệ thống qua tập huấn, thường
huấn, chuyên huấn… nhằm nâng cao tinh thần và năng lực phục vụ; (2) bồi dưỡng
cách riêng qua các dịp tĩnh tâm, đặc biệt là dịp nhận chức và chuẩn bị mừng
trọng thể lễ bổn mạng hội đồng mục vụ giáo xứ; (3) linh mục chính xứ dâng lễ
cầu nguyện cho dịp lễ bổn mạng hội đồng mục vụ giáo xứ;[6] (4) cộng đoàn giáo xứ bày tỏ thái độ
trân trọng, biết ơn, cầu nguyện và chung tay cộng tác để xây dựng Giáo hội
Chúa; (5) cấp vi bằng, khi hoàn thành nhiệm vụ cách mỹ mãn, theo quy định của
giáo phận.[7]
Quyền lợi khi qua đời
Vì các thành viên hội đồng mục vụ giáo xứ đã từng cộng
tác chặt chẽ và thường xuyên với linh mục chính xứ trong việc quản trị giáo xứ,
khi: (1) đến dịp lễ các linh hồn (2-11), các thành viên đã qua đời có quyền
được giáo xứ trích quỹ hội đồng mục vụ giáo xứ để xin một thánh lễ cầu nguyện
cho; (2) một thành viên đương nhiệm hoặc đã mãn nhiệm qua đời: * Thành viên ban
thường vụ hội đồng mục vụ giáo xứ và trưởng các giáo họ: (1*) trong giáo xứ:
(1**) ban thường vụ hội đồng mục vụ giáo xứ đến viếng xác, (2**) hội đồng mục
vụ giáo xứ trích quỹ xin một thánh lễ và thông báo cho cộng đoàn dự lễ an táng;
(2*) ngoài giáo xứ (ở xa): hội đồng mục vụ giáo xứ xin một thánh lễ và ban
thường vụ hội đồng mục vụ giáo xứ thông báo cho cộng đoàn hiệp ý cầu nguyện. *
Thành viên khác thuộc hội đồng mục vụ giáo xứ: (1*) trong giáo xứ: (1**) các
thành viên hội đồng mục vụ giáo xứ đến viếng xác, (2**) hội đồng mục vụ giáo xứ
trích quỹ xin một thánh lễ và thông báo cho cộng đoàn dự lễ an táng; (2*) ngoài
giáo xứ (ở xa): hội đồng mục vụ giáo xứ xin một thánh lễ và thông báo cho cộng
đoàn hiệp ý cầu nguyện; (3) người bạn đời của một thành viên đương nhiệm hoặc
đã mãn nhiệm qua đời:[8] * Người bạn đời của thành viên ban
thường vụ hội đồng mục vụ giáo xứ và của trưởng các giáo họ: (1*) trong giáo
xứ: (1**) ban thường vụ hội đồng mục vụ giáo xứ đến viếng xác, (2**) hội đồng
mục vụ giáo xứ trích quỹ xin một thánh lễ và thông báo cho cộng đoàn dự lễ an
táng; (2*) ngoài giáo xứ (ở xa): hội đồng mục vụ giáo xứ xin một thánh lễ và
ban thường vụ hội đồng mục vụ giáo xứ thông báo cho cộng đoàn hiệp ý cầu
nguyện. * Người bạn đời của thành viên khác thuộc hội đồng mục vụ giáo xứ: (1*)
trong giáo xứ: (1**) đại diện hội đồng mục vụ giáo xứ đến viếng xác, (2**) hội
đồng mục vụ giáo xứ trích quỹ xin một thánh lễ và thông báo cho cộng đoàn dự lễ
an táng; (2*) ngoài giáo xứ (ở xa): hội đồng mục vụ giáo xứ xin một thánh lễ và
thông báo cho cộng đoàn hiệp ý cầu nguyện. (4) cha hoặc mẹ của một thành viên
đương nhiệm hoặc đã mãn nhiệm qua đời: * Cha hoặc mẹ của thành viên ban thường
vụ hội đồng mục vụ giáo xứ và của trưởng các giáo họ: (1*) trong giáo xứ: ban
thường vụ hội đồng mục vụ giáo xứ đến viếng xác và dự lễ an táng; (2*) ngoài
giáo xứ (ở xa): ban thường vụ hội đồng mục vụ giáo xứ thông báo cho cộng đoàn
hiệp ý cầu nguyện. * Cha hoặc mẹ của thành viên khác thuộc hội đồng mục vụ giáo
xứ: (1*) trong giáo xứ: thành viên hội đồng mục vụ giáo xứ đến viếng xác và dự
lễ an táng; (2*) ngoài giáo xứ (ở xa): hội đồng mục vụ giáo xứ thông báo cho
cộng đoàn hiệp ý cầu nguyện.[9]
Câu hỏi giúp thảo luận
Bạn nghĩ thế nào về ý tưởng “làm việc Nhà Chúa và được
trả công”?
Theo bạn, “… trả công… từ những người vào làm sau chót
tới những người vào làm trước nhất” (Mt 20,8) nghĩa là làm sao?
28-9-2018, GTHH
PHẦN HUẤN GIÁO
Phần II: GIÁO DÂN TRONG LÒNG HỘI THÁNH
GIÁO DÂN TRONG
CHIỀU KÍCH ÂN ĐIỂN CỦA GIÁO HỘI
1- Hội Thánh là Cộng Đoàn của Thần Khí
Hội Thánh toàn cầu đã vậy, huống hồ chi Hội Thánh địa
phương (Giáo Phận và Giáo Xứ) không chính yếu hệ tại ở cơ cấu tổ chức hay địa
giới hay cơ sở, nhưng là “gia đình của Thiên Chúa, gồm các phần tử được nung
đốt bằng Thần Khí liên kết”, “một mái ấm gia đình niềm nở”, hay “cộng đoàn
các tín hữu” như tông huấn Người Kitô Hữu Giáo Dân số 26 xác định.
Một trong các chiều kích chính yếu của cộng đoàn ân điển
này chính là:Hội Thánh (cả cấp giáo phận và giáo xứ) được trình bày cách sống
động, dựa trên nền tảng thần học vững chắc, như một “cộng đoàn
Thánh Thể”. Điều đó có nghĩa là Hội Thánh, nhất là trong cơ cấu gần
gũi nhất là Giáo Xứ, phải được hiểu và biểu hiện như một cộng đoàn thích hợp
nhất cho việc cử hành Lời Chúa và Thánh Thể. Đó chính là nguồn mạch xây dựng
cộng đoàn, sợi giây liên kết bền chặt giữa các phần tử và cột chặt nó trong sự
hiệp thông toàn cầu. Hội Thánh toàn cầu và Giáo Phận có thể thực hiện được điều
cơ bản này khi làm cho Giáo Xứ được toàn thể các phần tử của mình tích cực coi
nó như một cộng đoàn đức tin có tổ chức xây dựng vững chắc trên
nền tảng Lời Chúa Thánh Thể.
2- Vai trò của Chủ Chăn trong Gia Đình ân điển này
Chắc chắn trong Gia Đình ân điển này, hàng Giáo Sĩ giữ
một vai trò then chốt như tông huấn CFL số 22 xác định: vai trò này
làm họ được tham dự vào chính chức linh mục tư tế của Đức Kitô Giêsu, là tác vụ
không chỉ khác về cấp độ và còn trong nội dung với sự tham dự được ban cho mọi
Kitô hữu thông qua Phép Rửa và Thêm Sức. Mặt khác, như Công Đồng Vatican II
nhắc nhở, tác vụ linh mục này phải hoàn toàn hướng về và phục vụ cho tác vụ
linh mục vương giả của tất cả mọi tín hữu. (Lumen Gentium 10)
3- Vai Trò và Công Tác của Kitô hữu Giáo dân trong Gia
Đình Thánh Thể
Như vậy, vai trò của người Kitô hữu Giáo dân bên trong
Hội Thánh (cụ thể là Hội Thánh địa phương) chính là xây dựng để biến giáo xứ
mình trở thành một “Cộng đoàn – Gia đình Thánh Thể trong Thần Khí”. Cho dầu
không phải là phần tử đứng đầu với chức thánh, tất cả mọi Kitô hữu giáo dân đều
phải là các chi thể tích cực của cộng đoàn này, tùy theo khả năng, tuổi tác và
địa vị của mình. Điều này phải được biểu lộ cách đặc biệt trong các hoàn
cảnh, khi nào và nơi đâu, vì một lý do nào đó, tác vụ của giáo sĩ nhất thiết
cần phải có sự hỗ trợ đắc lực của giáo dân .Giáo Luật 230 khẳng định: “Ở đâu nhu
cầu Hội Thánh đòi hỏi vì thiếu thừa tác viên giáo sĩ, các giáo dân dù không có
tác vụ chính thức đọc sách hay giúp lễ, cũng có thể làm thay, cụ thể là thực
thi thừa tác viên Lời Chúa, chủ tọa các buổi đọc kinh phụng vụ, ban Phép Rửa và
cho rước lễ, theo các qui định của giáo luật”.
Ở đây không có vấn đề một năng quyền đặc biệt nào được
ban cho người tín hữu, mà chỉ là xác định sự chuẩn bị xứng đáng của một số phần
tử nào đó trong cộng đoàn đứng ra đảm trách công khai thi hành các việc phục vụ
liên quan tới cộng đoàn Thánh Thể và thực hành tác vụ linh mục chung của mọi
người. Công Đồng Vatican II gọi điều này trong ngôn ngữ thần học là ‘tham dự
vào nhiệm vụ tư tế của Đức Kitô” (xem CFL 21). Các xác định trên là nền tảng
cho tất cả mọi sinh hoạt giáo dân đóng góp vào việc xây dựng giáo xứ, nhất nhất
xoay quanh cử hành Thánh Thể và Lời Chúa, từ các tác vụ liên quan trực tiếp tới
các phục vụ gián tiếp hơn như ca đoàn, giúp lễ, quét đọn nhà thờ, phòng thánh,
và còn xa hơn nữa cho tới mọi trang hoàng, rước sách và lễ hội v.v… của cộng
đoàn này.Tất cả các sinh hoạt này chỉ có ý nghĩa một khi giáo dân thi hành
trong ý thức xây dựng gia đình Thánh Thể và Lời Chúa của Giáo Hội Địa Phương
(Giáo Xứ).
Trong quá trình lịch sử, Giáo Hội Việt Nam đã sớm khai
thác và triển nở một dạng phục vụ cộng đoàn Thánh Thể và Lời Chúa cách rất đa
dạng và độc đáo. Do nhiều hoàn cảnh xui khiến, cũng như do lòng quảng đại của
các giáo dân mà nhiều hình thức tham gia phục vụ rất sáng tạo và quan trọng
được hình thành. Thời xưa‘Thầy Giảng’ chính là trường hợp các giáo dân tích cực
nhất được chọn lọc tham gia vào công tác này; các thày làm thay cho giáo sĩ
trong mọi sự, trừ cử hành thánh lễ, khi các ngài vắng mặt. Ngày nay, nhất là
tại nhiều vùng truyền giáo, đặc biệt giữa các anh chị em dân tộc, các Giáo Phu
cũng là các giáo dân tích cực cũng cống hiến một sự phục vụ quảng đại và hữu
hiện thuộc dạng này. Họ không thể được coi như một thứ bán giáo sĩ, nhưng phải
được nhìn nhận là các Kitô hữu giáo dân đích thực nhất trong cộng đoàn, hầu xây
dựng Gia Đình Thánh Thể tại một Hội Thánh địa phương. Chúng ta cần cảm tạ Chúa
và nỗ lực vun trồng truyền thống tốt đẹp đáng tự hào này của Hội Thánh Việt Nam
chúng ta.
4- Vai trò và Công tác của Giáo Dân trong việc xây dựng
Cộng Đoàn Ân Điển
Ngoài ra Kitô Hữu Giáo Dân cũng nhận được trực tiếp từ
Chúa Thánh Thần rất nhiều ân điển phong phú hầu đóng góp xây dựng Cộng Đoàn Ân
Điển. Các ân điển này được gọi là ‘đoàn sủng’ (charisms)
như CFL 24 giải thích như sau: “Chúa Thánh
Thần, trong khi ban phát nhiều tác vụ khác nhau trong Hội Thánh hiệp thông, còn
không ngừng tô điểm Hội Thánh bằng những ân huệ đặc biệt dưới tác động của ơn
thánh; điều này được gọi là ‘đoàn sủng’. Các đoàn sủng này mang nhiều hình thức
rất khác nhau, vì biểu hiện sự tự do tuyệt đối của Thánh Thần, Đấng hằng cung
cấp các đoàn sủng này cách phong phú hầu đáp ứng nhiều nhu cầu khác nhau của
lịch sử Giáo Hội. (xin tham khảo1 Cr 12:7-10; 1 Cr 12:4-6, 28-31; Rm 12:6-8; 1
Pr 4:10-11, cũng xem Apostolicam Actuositatem, số 3).
Hội Thánh có bổn phận nhìn nhận và tôn trọng các ân điển này, không những trên
bình diện cá nhân, mà cả trên bình diện tập thể. Riêng trên bình diện tập thể
dưới dạng dòng tu, hiệp hội và hội đoàn, Hội Thánh có vai trò và thẩm
quyền minh định rõ nguồn gốc Thần Khí, cũng như định hướng qui về và phục vụ
Nhiệm Thể của Đức Kitô của các tổ chức ấy, qua việc phê chuẩn cách chính thức.
Nếu ‘đoàn sủng’ được hiểu theo nội dung trên, thì mỗi
Kitô hữu bất luận giáo sĩ hay giáo dân đều có trách nhiệm tối đa cổ súy đoàn
sủng mình nhận được vì lợi ích chung của toàn Hội Thánh Chúa, đồng thời họ có
thể liên kết với những người khác hầu phát huy đoàn sủng này cách mạnh mẽ hơn
(xem CFL 29). Ta gọi việc liên kết này là quyền thiết lập và
tham gia vào các hiệp hội và hội đoàn, mà mọi phần tử Kitô hữu, bất luận Giáo
sĩ hay Giáo dân đều có. Cũng trong nội dung này ta mới hiểu được ý nghĩa
và vai trò của các hội dòng, các hiệp hội và đoàn thể do bất kì Kitô hữu nào
sáng lập trong Hội Thánh. Thật vậy Giáo luật số 215 khẳng định: “Các Kitô
hữu Giáo dân hoàn toàn tự do trong việc thành lập và điều hành các hội đoàn,
đoàn thể mang mục đích bác ái và tôn giáo hay để khích lệ ơn gọi Kitô hữu trên
thế giới. Họ hoàn toàn tự do tham dự các buổi họp hầu theo đuổi mục đích chung
đã đề ra”. Cũng trong nội dung này ta hiểu được sự tại sao các
‘dòng tu’, trong tư cách là một tập thể đoàn sủng trong Hội Thánh, có thể dung
nạp được cả hai thành phần giáo sĩ và giáo dân trong số các thành viên của
mình.
Câu hỏi gợi ý:
Bạn có thấy nhu cầu thống nhất tầm nhìn của nhiều hoạt
động đa diện trong giáo xứ, để mọi ban ngành cùng chung một chí hướng phục vụ
Gia đình Thánh Thể không?
Bạn quan niệm gì về Thầy Giảng hay Giáo Phu? Các sinh
hoạt này nói lên điều gì cho nội dung phục vụ của Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ (Ban
Hành Giáo) chúng ta?
Cha xứ có trách nhiệm nào trong việc thiết lập hay sinh
hoạt của một hiệp hội hay đoàn thể đã được Đấng Bản Quyền công nhận cách chính
thức? Khi nào thì ngài có quyền câm đoán hay ngăn cản các đoàn thể – hiệp hội
đó?
PHẦN MỤC VỤ
Nền văn hoá
toàn diện và liên đới
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn
Kể từ Công đồng Vaticanô II (1962-1965) cho đến nay, từ
“văn hoá” được nhắc đến nhiều lần trong các văn kiện chính thức và quan trọng
của Giáo hội Công giáo[10] vì văn hoá bao gồm hầu như mọi
sinh hoạt thường ngày của con người. Vì thế chúng ta cần tìm hiểu xem văn hoá
là gì, Giáo hội muốn chúng ta xây dựng loại văn hoá nào và xây dựng nó bằng
cách nào?
1- Văn hoá là gì?
Từ văn hoá có nhiều nghĩa. Theo
nghĩa chữ, văn là vẻ đẹp do mầu sắc tạo ra, là hình thức đẹp
trong nghi lễ, nghệ thuật, ngôn ngữ, trong cách cai trị, cư xử…; hoá có
nghĩa là dạy dỗ, làm cho hình thành. Trong Từ điển Tiếng Việt,
ta thấy có 5 ý nghĩa khác nhau, nhưng ý nghĩa rộng nhất: “Văn hoá là tổng thể
nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong
quá trình lịch sử”. Ví dụ: kho tàng văn hoá dân tộc[11].
Công đồng Vaticanô II, trong Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, số 53, đã
xác định văn hoá gắn kết chặt chẽ với bản tính con người: “Một đặc
điểm của con người là bản ngã nhân vị chỉ có thể đạt tới nhân tính đích thực và
trọn vẹn nhờ văn hoá, nghĩa là nhờ việc trau giồi những phẩm chất thiện hảo và
giá trị tự nhiên. Vì thế, cuộc sống con người bao giờ cũng gắn kết chặt chẽ với
thiên nhiên và văn hoá”.
Công đồng cũng mở rộng nội dung của văn hoá: “Theo nghĩa
tổng quát, từ “văn hoá” chỉ tất cả những gì con người có thể sử dụng để trau
giồi và phát triển các năng khiếu đa diện của tâm hồn và thể xác; để tìm cách
chế ngự cả trái đất bằng tri thức và lao động; để làm cho đời sống xã
hội, cả trong đời sống gia đình cũng như nơi cộng đồng chính trị, trở thành
nhân bản hơn, nhờ vào sự tiến bộ trong các tập tục và định chế; sau cùng, để
diễn tả, thông truyền và bảo tồn trong các công trình của mình, những kinh
nghiệm tinh thần và hoài bão lớn lao của con người trải qua các thời đại, để
giúp cho nhiều người, thậm chí cho toàn thể nhân loại, tiến bộ hơn”.
Trong Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á công bố năm 1999, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã
gián tiếp nhắc đến các yếu tố cơ bản về văn hoá để chúng ta nhận thức được nội
dung lớn lao của văn hoá. Ngài xác nhận: “Châu Á có nhiều nền văn hoá”, được
hiểu như là những hệ thống giá trị.
Ngài nhắc nhở: “Văn hoá là kết quả xuất phát từ cuộc sống và sinh
hoạt của một tập thể nhân loại, thì đối lại những con người thuộc tập thể này
lại được khuôn đúc trong một phạm vi rộng bởi chính nền văn hoá mà họ đang sinh
sống. Nếu con người và xã hội thay đổi, văn hoá cũng sẽ thay đổi theo. Ngược
lại, nếu văn hoá đổi thay thì con người và xã hội cũng được văn hoá ấy biến đổi
theo“[12].
2- Giáo Hội đang muốn xây dựng nền văn hoá nào?
Trong lịch sử nhân loại, người ta đã biết đến nhiều nền
văn hoá khác nhau như văn hoá bái vật hoặc bái thần, văn hoá duy vật hoặc duy
tâm, văn hoá sự sống hoặc sự chết, văn hoá hữu thần hay vô thần, văn hoá xã hội
chủ nghĩa hoặc cá nhân chủ nghĩa….
2.1. Văn hoá nhân bản
Giáo hội Công giáo cổ vũ nền văn hoá nhân bản. Đây là một
hệ thống giá trị bao gồm các suy tư và hành động, lấy con
người làm gốc, làm nền tảng, thay vì lấy vật chất hay thần linh. Hệ
thống suy tư giúp ta có những nhận thức đúng đắn về chính mình, về con người,
về vạn vật cũng như về Thiên Chúa. Hệ thống hành động bao gồm những hành vi và
kỹ năng sống để ta thể hiện tốt đẹp và hiệu quả những nhận thức trên.
Từ Công đồng Vaticanô II, Giáo hội Công giáo đã bắt đầu
xây dựng một nền nhân bản dựa vào Chúa Kitô để làm sáng tỏ mầu nhiệm về con
người và mời gọi mọi người cùng tìm giải đáp cho những vấn đề chính yếu của
thời đại [13].
Giáo hội Công giáo đã xác định rằng con người là con
đường của Giáo Hội [14] và cũng là con đường của Thiên Chúa,
vì “Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm người” trở thành Đức Giêsu Kitô (x. Ga 1,14).
Người sống với con người để làm cho tất cả những giá trị của con người thành
cao cả vô biên vì “mầu nhiệm về con người chỉ thực sự được sáng tỏ nơi Đức
Giêsu Kitô”[15] .
2.2. Mục đích của nền nhân bản mới
Nền nhân bản này nhằm mục tiêu là đổi mới và xây dựng mỗi
tín hữu thành hiện thân sống động của Đức Giêsu Kitô. Người là con người mới,
con người hoàn hảo, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình (Cl 1,15), là Adam mới
(x. Rm 5,14) vì nhờ Người mà “bản tính nhân loại của chúng ta đã được nâng lên
một phẩm giá siêu việt qua mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Người” [16].
Người tín hữu nhờ kết hợp với Đức Kitô sẽ nhận được
“những hoa trái đầu mùa của Thánh Thần” (Rm 8,23, để trở thành con người mới có
khả năng chu toàn luật yêu thương mới (x. Mt 22,40; Ga 15,12; Rm 8,1-11), xây
dựng được nền văn minh tình yêu[17] cho cộng đồng nhân loại vì Đức Giêsu
Kitô là nguyên mẫu và là nền tảng của nhân loại mới này [18] .
2.3. Con người toàn diện bao gồm các lĩnh vực nào?
Nền văn hoá nhân bản toàn diện bao gồm mọi lĩnh vực của
con người như thể chất và tinh thần, cá nhân và tập thể, tự nhiên và siêu
nhiên, nội tâm và ngoại giới. Công đồng Vaticanô II đã lưu ý đến những lĩnh vực
này trong các văn kiện, nhất là trong Hiến chế Gaudium et Spes.
Công đồng lưu tâm đến thân phận con người trong thế giới ngày nay, đến phẩm giá
cao cả, đến cộng đồng nhân loại và sinh hoạt của con người trong thế giới và vũ
trụ. Công đồng cũng lưu ý đến một số vấn đề khẩn thiết như hôn nhân và gia
đình, giáo dục và văn hoá, kinh tế và chính trị, chiến tranh và hoà bình, đối
thoại liên tôn và các phương tiện truyền thông xã hội.
Bốn mươi năm sau Công đồng, Giáo hội Công giáo tổng hợp
những vấn đề của con người trong cuốn Học Thuyết Xã Hội của Giáo hội Công giáo, công
bố năm 2004, thành một nền văn hoá nhân bản đúng đắn và toàn diện. Nền văn hoá
này còn được xác nhận qua cuốn Docat, được Đức Giáo Hoàng Phanxicô gửi tặng các
bạn trẻ thế giới năm 2016.
2.4. Con người liên đới có các mối tương quan nào?
Con người toàn diện có 4 mối quan hệ căn bản với 4 tinh
thần phải tập luyện để thể hiện tốt đẹp các tương quan ấy:
Trong tương quan với Thiên Chúa, con người giữ tinh thần thảo hiếu, vì
Ngài là nguồn của mọi hiện hữu, của chân thiện mỹ, của sự sống vĩnh hằng và
hạnh phúc vô biên.
Trong tương quan với mọi người sống trên trái đất và cả trong vũ trụ, con người
giữ tinh thần huynh đệ, đối xử với nhau như anh em trong cùng
một đại gia đình, không kỳ thị vì bất cứ khác biệt nào.
Trong tương quan với vạn vật, con người giữ tinh thần huynh trưởng vì
Thiên Chúa Tạo Hoá đã giao phó vạn vật trên trái đất cho con người để thay Ngài
quản trị muôn loài (x. St 1,26-28; Kn 2,23) và loan báo Tin Mừng cho muôn loài
thụ tạo (x. Mc 16,15).
Trong tương quan với chính mình, con người giữ tinh thần tự chủ: Tinh thần này nhắc nhở mọi người cố gắng làm chủ
bản thân, tình cảm, thời giờ, tài năng, ân huệ và cả những tham vọng, dục vọng
để trở thành một con người tự do thật sự trước mọi ràng buộc của cuộc sống.
3- Giáo Hội xây dựng nền văn hoá bằng cách nào?
Phương cách quan trọng được Giáo Hội cổ vũ là hội nhập
văn hoá (HNVH)[19].
Hội nhập là hoà mình vào trong một cộng đồng lớn. Ví dụ:
Việt Nam hội nhập vào khối ASEAN. HNVH là hoà mình vào trong nền
văn hoá hay đúng hơn là chấp nhận một hệ thống giá trị mới.
Chủ thể hội nhập ở đây được xác định là một cá nhân hay
một tập thể (cộng đồng Giáo Hội) tiếp nhận một phần hay toàn bộ hệ thống giá
trị đã có sẵn của một dân tộc nào đó. Ví dụ các thừa sai nước ngoài đến giảng
đạo đã học tiếng Việt, ăn mặc như người Việt, trình bày giáo lý theo cách hiểu
của người Việt. Như thế là họ đã hội nhập vào nền văn hoá Việt Nam.
Chúa Thánh Thần là tác nhân chính của việc đưa đức tin Kitô Giáo HNVH vào châu Á[20]. “Thánh Thần đã cho chúng ta hiểu biết chân lý toàn
diện, thì cũng có thể giúp chúng ta đối thoại với các giá trị văn hoá và tôn
giáo của các dân tộc được kết quả“[21] .
Ngoài tác nhân chính là Chúa Thánh Thần, chủ thể hội nhập
chính là Giáo Hội được hiểu như là cộng đồng Kitô hữu. Những con người này, có
một nền văn hoá riêng, nghĩa là có cả một hệ thống giá trị vật chất cũng như
tinh thần được sáng tạo và tích luỹ qua dòng lịch sử. Bây giờ Giáo Hội gặp gỡ
và đối thoại với một nền văn hoá nào đó, “trong quá trình gặp gỡ các nền văn hoá khác nhau
của thế giới, Giáo Hội chẳng những truyền đạt các chân lý và giá trị của mình,
cũng như đổi mới các nền văn hoá ấy từ bên trong, mà còn thu dụng nhiều yếu tố
tích cực có sẵn từ các nền văn hoá khác nhau ấy“[22].
Hơn nữa, việc HNVH bao gồm nhiều giá trị trên các lĩnh
vực khác nhau, nên chủ thể hội nhập có thể trao đổi, gặp gỡ và đón nhận các giá
trị trên nhiều bình diện khác nhau. Vì thế, ĐTC nói đến việc đưa Tin Mừng Chúa
Giêsu Kitô, hay đưa những giá trị về đức tin, thần học, phụng vụ, linh đạo,
huấn giáo của Kitô giáo hội nhập vào một nền văn hoá nhất định[23].
Kết luận
Nhìn vào cộng đồng xã hội Việt Nam, người Công giáo chúng
ta không thể không ưu tư vì số người biết Đức Giêsu hãy còn quá ít sau hàng
trăm năm loan báo Tin Mừng cũng như tình trạng suy thoái về văn hoá và đạo đức
của dân tộc. Chúng ta chỉ có thể cải thiện tình trạng này bằng cách xây dựng
nền văn hoá toàn diện và liên đới với những cố gắng hội nhập văn hoá của mọi
thành phần dân Chúa.
Câu hỏi gợi ý
1) Giáo Hội muốn xây dựng nền văn hoá với những đặc điểm
nào nào?
2) Việc hội nhập văn hoá được diễn tả qua những mối tương
quan nào?
**************************************************************
[1] Nguyễn Chí Linh, Diễn từ
chào mừng Đức Tổng Giám mục Marek Zalewski (24-9-2018).
[2] Ibid.
[3] X. Mt 20,8.
[4] 2 Tm 4,7-8.
[5] X. BGL, đđ. 305;
536.
[6] Linh mục chính xứ cầu nguyện cho tất
cả các vị phục vụ giáo xứ ở các cấp, đương nhiệm và đã mãn nhiệm.
[7] Tòa giám mục cấp cho các thành viên
ban thường vụ và các trưởng ban chấp hành các giáo họ (theo đề xuất của linh
mục chính xứ). Linh mục chính xứ cấp cho các thành viên khác.
[8] Tương tự như số (2) của điều này.
[9] X. Ta, “Điều 19-21: Quyền lợi – Quyền
lợi khi còn sống – Quyền lợi khi qua đời” trongThần học mục vụ…
(TP. HCM, Nxb. Tôn Giáo, 2015), 768-773.
[10] Xem Mục lục phân tích chủ đề, mục
từ Văn hoá, cúa sách Công đồng Chung Vaticanô II,
năm 2012, tr 1025; sách Giáo Lý Hội Thánh công Giáo, năm 2010,
tr 1063; sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của
Giáo hội Công giáo, năm 2007, tr 686-689; sách Docat, năm 2017,
tr 112,242,76,155,243,45,102,277-278.
[11] Trung tâm Từ điển học, Từ điển
Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2013, tr 1409
[12] X. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II,
Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, số 21
[13] X. CĐ. Vat.II, Hiến chế Gaudium et
Spes, số 10
[14] X. Sách Tóm lược
Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo, xuất bản
năm 2007, số 62
[15] Sách Công đồng
Chung Vaticanô II, Hội đồng Giám mục Việt Nam, xuất bản năm 2012,
số 22
[16] X. Sách Công đồng
Chung Vaticanô II, Hội đồng Giám mục Việt Nam, xuất bản năm 2012,
số 22
[17] X. Sách Tóm lược
Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo, năm
2007, số 575-580
[18] X. Sách Tóm lược
Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo, năm 2007, số
431
[19] X. Như được nói đến trong Hiến chế
Tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, số 13; Tông huấn Loan báo
Tin Mừng, số 20; Thông điệp Sứ vụ Đấng Cứu Độ, số 52. Trong tông
huấn Giáo hội tại Châu Á, ĐTC Gioan Phaolô II nhắc đi nhắc lại từ này nhiều
lần, đặc biệt ở số 21 (4 lần) và 22 (10 lần).
[20] X. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II,
Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, số 21
[21] X. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II,
Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, số 21
[22] X. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II,
Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, số 21
[23] X. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II,
Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, số 22
Bài huấn luyện hàng
tháng của Ủy Ban Giáo dân (BÀI 6)
UBGD-HĐGM. VN
Ban Nghiên Huấn
PHẦN TU ĐỨC
CHÂN DUNG NGƯỜI PHỤC VỤ
Đức Giêsu diễn tả
sống động chân dung người phục vụ, cách đặc biệt trong bữa tiệc ly. Người mời
gọi và trao ban lệnh truyền cho tất cả chúng ta, những người tiếp tục diễn tả
chân dung người phục vụ trong đời sống thường ngày: “Nếu Thầy là Chúa, là
Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau”
(Ga 13,14). Là thành viên Hội đồng mục vụ giáo xứ, hẳn là mỗi người chúng ta
đều trải nghiệm những thách đố trong việc phục vụ, những cản trở nơi bản thân hoặc
nơi tha nhân: bao lần chúng ta gặp những anh chị em tự thấy mình thật cao, đến
độ không đón nhận sự phục vụ của chúng ta; bao lần chúng ta theo đuổi tham vọng
cho mình “cao hơn một chút”, một chút hư danh hay một chút uy quyền,
thay vì âm thầm và khiêm tốn phục vụ một cách vô vị lợi và trong sáng… Để phục
vụ cộng đoàn, chúng ta cần có tâm thế và cung cách ứng xử của Đức Giêsu. Trở về
với Người để được chinh phục bởi “tình yêu đến cùng” của Người và sống
những giá trị nền tảng của đời phục vụ: quảng đại, cảm thông, và khiêm nhường…
Khi phục vụ cộng
đoàn, không ít lần chúng ta thấy mình quá bé nhỏ giữa những người tự phụ. Dụ
ngôn của Đức Giêsu về người Pharisêu và người thu thuế phác hoạ hai hình ảnh
đối nghịch nhau: người Pharisêu tự thấy mình thật cao và người thu thuế tự thấy
mình thật bé nhỏ (Lc 18, 9-15). Người Pharisêu hài lòng với chính mình, vâng
phục lề luật, thi hành bổn phận tôn giáo… nhưng ông ta thiếu hiểu biết, thiếu
cảm thông, thiếu khiêm nhường…; ông ta tự thấy mình thật cao, hài lòng với vị
thế của mình và khinh chê người khác. Trong khi đó, người thu thuế, khi đối
diện với Thiên Chúa, chỉ thấy mình tội lỗi và bất xứng, nên không ngừng kêu
xin: “Lạy Chúa, xin thương xót con”. Đức Giêsu khẳng định: “Tôi nói
cho các ông biết: người này khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính
rồi; còn người kia thì không”. Khiêm tốn sống sự nhỏ bé và bất xứng của
mình trước Thiên Chúa, đó là đường nét căn bản phác hoạ chân dung người phục
vụ.
Tiếp đến, trong
hành trình phục vụ cộng đoàn, không ít lần chúng ta gặp những rào cản hay trở
ngại gặp Chúa, như Da-kêu (Lc 19,1-10). Nhiều lúc chúng ta thấy mình quá nhỏ
bé, muốn mình “cao hơn một chút” để có thể lấn lướt những khó khăn và
trở ngại nơi cộng đoàn; nhiều lúc chúng ta thấy mình đơn độc và kiệt sức giữa
vô vàn việc phục vụ, giữa vô vàn những người tự nhận là “đang đi theo Đức
Giêsu” nhưng chính họ lại đang che khuất Đức Giêsu khỏi chúng ta; bao lần
cộng đoàn giáo xứ mà chúng ta phục vụ đã che khuất Chúa Giêsu khỏi mắt chúng ta
bởi những ghe tương, ích kỷ, căng thẳng… Da-kêu đã vượt qua những rào cản ấy
bằng sáng kiến trèo lên cây. Khi Đức Giêsu đi ngang qua, Người nhìn lên và nói
với ông: “Da-kêu xuống mau, vì hôm nay tôi phải ở nhà của ông”. Da-kêu
được chinh phục bởi thái độ của Đức Giêsu, ông đón rước Người vào nhà mình;
được Đức Giêsu cảm hoá, ông thay đổi đời sống: “Đây phân nửa tài sản của
tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền
gấp bốn”. Tấm lòng người phục vụ theo phong cách Đức Giêsu luôn quảng đại
và bao dung, có khả năng chạm đến lòng thương xót của Thiên Chúa: “Hôm nay,
ơn cứu độ đã đến cho nhà này”.
Sau cùng, trước
tình yêu “đến cùng” của Đức Giêsu, người phục vụ theo phong cách của
Người cũng quảng đại phục vụ đến cùng (Mc 12,41-44). Đức Giêsu ở cửa đền thờ,
Người thấy người đàn bà tới, khiêm tốn, đơn sơ, lén lút… và bỏ vài đồng trinh
vào hòm tiền dâng cúng trong đền thờ. Bà nghĩ rằng không ai nhìn thấy, nhưng có
một người nhìn thấy bà, đó là Đức Giêsu. Không chỉ nhìn thấy, Người còn gọi các
môn đệ lại nhìn và nói với họ: “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ
vào thùng nhiều hơn ai hết”. Người giàu huyênh hoang bỏ vào thùng số tiền
có vẻ nhiều, có thể đó cũng là cách họ bố thí cho người nghèo, nhưng Đức Giêsu
nhận ra và khen ngợi bà goá nghèo. Tôi đã và đang phục vụ như thế nào: có
dâng cho Chúa cái dư thừa và muốn phô trương? có tính toán thiệt hơn với Chúa,
dâng thật nhiều nhưng cũng mong thật nhiều cho mình được “cao hơn một chút”,
được nhận biết và tán dương hơn một chút? Tôi có quảng đại với Chúa
như bà goá nghèo: dâng cho Chúa điều tôi có-điều tôi được Chúa ban, vì
sự sống còn của chính mình? có quảng đại với Chúa, để dâng cho Ngài chính bản
thân, thời gian và tâm sức, để phục vụ cộng đoàn, một cách vô vị lợi và trong
sáng?
Lm Gioan Vũ Ngọc
Tín, SJ.
PHẦN QUẢN TRỊ MỤC VỤ
MỖI NGƯỜI MỘT QUAN TIỀN
“Vậy những người
mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan
tiền. Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh
nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền”. (Mt 20,9-10)
Dẫn vào
Từ ngày 18 tháng 10
đến 24 tháng 10 năm 2018 vừa qua, tại Batam của Inđônêxia, Tổng hội AsIPA VIII
(VIII AsIPA General Assembly) với sự hiện diện các đại biểu của 11 nước Châu Á
và một nước Châu Âu đã diễn ra theo trù định...[1] – bao gồm cả
tín hiệu về sự nâng cấp từ AsIPA Desk[2] thành BEC
Office[3] trong tương
lai trước mắt (không còn xa) – với rất nhiều cảm xúc tốt đẹp.
Chủ đề “Các cộng
đoàn Kitô hữu nhỏ Phúc âm hoá các gia đình hướng đến hiệp thông và sứ vụ”[4] mà Văn phòng
“Giáo Dân và Gia Đình” của Liên Hội Đồng Giám Mục Châu Á (FABC) trước đó đã gửi
đến các hội đồng giám mục các nước thành viên, đã được triển khai rất cụ thể.[5] Theo tôi, đó
cũng là cách thể hiện những quan tâm chung, chia sẻ công việc với ý thức đồng
trách nhiệm: không mơ tưởng “... sẽ được lãnh nhiều hơn..”. nhưng sẵn lòng để
được nhận lãnh “mỗi người một quan tiền”.[6]
Không mơ tưởng “…
sẽ được lãnh nhiều hơn…”
Được sắp xếp theo
thứ tự alphabet, Phái đoàn Việt Nam hầu như luôn luôn ở vị trí cuối trong mọi
“xuất hiện” (ngay sau Thái Lan) – những người mới vào làm lúc “giờ thứ mười
một” – theo thứ tự sinh hoạt của tổng hội.[7] Tuy nhiên,
nội dung trình bày và những phát biểu của Phái đoàn Việt Nam rất nồng nhiệt,
tích cực, hội nhập...[8] chan hoà với
những thành viên khác cùng đến làm việc trong vườn nho của Chúa ở những thời
điểm khác nhau. Có thể nói, đó cũng là một phản ánh cách thể hiện mới của Giáo
hội Chúa tại Châu Á, một cách thế mới của “mỗi người được một quan tiền”.[9] Rất chan hoà.
Không mơ tưởng “…
sẽ được lãnh nhiều hơn…” là bầu khí chan hoà huynh đệ của những anh chị em dấn
thân phụng sự Chúa trong Giáo hội. Bởi lẽ, trong Giáo hội, quyền bính là để
phục vụ chứ không phải để được người ta phục vụ:[10] quyền lợi
phải được sở đắc để biểu hiện sự bình đẳng trong phẩm giá và trong hành động
của con người; nâng cao phẩm giá của người tín hữu và luôn luôn nhằm đến
sự thăng tiến ngày càng cao hơn; xác định ý nghĩa tự do Kitô giáo.[11] Khái niệm về
bổn phận, nghĩa vụ, quyền và quyền lợi có ý nghĩa đặc biệt dưới ánh sáng mục
đích siêu nhiên của Giáo hội. Bổn phận, nghĩa vụ, quyền và quyền lợi là những
phương tiện giúp định hướng việc đạt đến mục đích siêu nhiên của Giáo hội. Hoạt
động tông đồ, một nghĩa vụ và quyền của người giáo dân phải được nhìn trong ý
nghĩa này: “Mỗi người một quan tiền”.
Mỗi người một quan
tiền
Khi trình bày về
“nhiệm vụ và quyền lợi”, Chương II tập Gợi ý cho một quy chế hội đồng mục
vụ giáo xứ của Ủy ban Giáo Dân (HĐGMVN) (2010) đã dành 12 điều để linh hoạt
thích ứng với ý nghĩa của “mỗi người được một quan tiền”: (1) Điều 10. Nhiệm vụ
của linh mục chính xứ đối với hội đồng mục vụ giáo xứ;[12] (2) Điều 11.
Nhiệm vụ của hội đồng mục vụ giáo xứ; (3) Điều 12. Nhiệm vụ của ban thường vụ
hội đồng mục vụ giáo xứ; (4) Điều 13. Nhiệm vụ của chủ tịch hội đồng mục vụ
giáo xứ; (5) Điều 14. Nhiệm vụ của phó chủ tịch hội đồng mục vụ giáo xứ, đặc
trách nội vụ; (6) Điều 15. Nhiệm vụ của phó chủ tịch hội đồng mục vụ giáo xứ,
đặc trách ngoại vụ; (7) Điều 16. Nhiệm vụ của thư ký hội đồng mục vụ giáo xứ;
(8) Điều 17. Nhiệm vụ của thủ quỹ hội đồng mục vụ giáo xứ; (9) Điều 18. Nhiệm
vụ của các uỷ viên hội đồng mục vụ giáo xứ; (10) Điều 19. Quyền lợi;[13] (11) Điều 20.
Quyền lợi khi còn sống; (12) Điều 21. Quyền lợi khi qua đời.
Để kết
“Mỗi người một quan
tiền..”.. Hoà vào rất nhiều hoạt động phong phú của Tổng hội AsIPA VIII, Phái
đoàn Việt Nam tích cực góp phần vào “mầu nhiệm – hiệp thông – sứ vụ” này của
AsIPA. Theo đó, chủ đề “Các cộng đoàn Kitô hữu nhỏ Phúc âm hoá các gia đình
hướng đến hiệp thông và sứ vụ”[14] có thể được
triển khai thành: “Các cộng đoàn Kitô hữu nhỏ Phúc âm hóa từng cá vị để Phúc âm
hóa các gia đình, để Phúc âm hóa các giáo xứ, để Phúc âm hóa các giáo phận...
hướng đến hiệp thông và sứ vụ”.[15]
Câu hỏi giúp thảo
luận
Bạn nghĩ thế nào về
định hướng Tin Mừng: không mơ tưởng “… sẽ được lãnh nhiều hơn…” khi làm việc
Nhà Chúa và được trả công”?
Bạn đang sống và
dấn thân làm việc tông đồ: hãy giữ tâm tình an vui, sống hài lòng với nguyên
tắc “mỗi người một quan tiền”. Tại sao?
28-10-2018, GTHH
GIÁO DÂN TRONG CHIỀU KÍCH RAO GIẢNG TIN
MỪNG CỦA HỘI THÁNH
PHẦN HUẤN GIÁO
Phần II:
GIÁO DÂN TRONG LÒNG HỘI THÁNH
1/ Rao giảng Tin Mừng
là chiều kích chính của Hội Thánh
Lệnh truyền của Đức
Kitô “anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ
tạo” (Mc 16:15) nhắm tới mọi phần tử của Hội Thánh, và như thế xác định
đây là một trong các bổn phận chính của toàn thể Hội Thánh, nhất là các Hội
Thánh cấp địa phương. Thật vậy Tông huấn CFL số 33 đã khẳng
định: “Giáo Dân trong tư cách là thành phần của Hội Thánh nên mang sứ mệnh
loan báo Tin Mừng. Các bí tích khai tâm Kitô giáo và các ân huệ của Chúa Thánh
Thần đã trang bị khả năng cho họ, và thúc giục họ thi hành sứ mạng này”.
Dựa vào 1 Ga 1:3, chúng ta phải hiểu như sau: một khi đã được
hiệp thông với Đức Kitô, mọi Kitô hữu bất luận là ai, đều phải nhận thức rõ
ràng rằng: mang hồng ân này chia sẻ cho người khác là một bổn phận bó buộc (xem
Tông Huấn CFL số 34).
2/ Rao giảng
Tin Mừng là tác vụ chuyên của Kitô hữu Giáo Dân
Tuy nhiên nhiệm vụ
rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh này có lẽ lại được trao phó cách đặc biệt cho
các Kitô hữu Giáo Dân sống giữa trần thế, như Hiến Chế Lumen
Gentium số 30 của Công Đồng Vaticanô II đã xác định: “Các chủ chăn
nhận thấy rõ sự đóng góp lớn lao của giáo dân cho lợi ích của Hội Thánh. Các
ngài biết rằng Đức Kitô đã không đặt các ngài lên để một mình lãnh lấy tất cả
sứ vụ cứu độ của Hội Thánh đối với thế giới, nhưng nhiệm vụ cao cả của các ngài
là chăn dắt tín hữu và nhận biết các phận vụ và đoàn sủng nơi họ, để mọi người
cùng góp phần vào công cuộc chung, tùy theo cách thức của mình”. Ta có thể
nói rằng: rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật là mục tiêu tối hậu của mọi mục vụ
trong Hội Thánh mà hàng giáo sĩ phải thực hiện, hầu giúp cho giáo dân chu toàn
được trách nhiệm chuyên trong sứ mạng Đức Giêsu đã trao phó. Vì thế ta có thể
gọi ‘rao giảng Tin Mừng’ chính là tác vụ chuyên biệt của Giáo Dân trong Hội
Thánh Chúa Kitô; và khi thi hành nhiệm vụ này người Kitô hữu Giáo Dân xác định
được vai trò ưu tuyển của mình trong Hội Thánh. Giáo sĩ có tác vụ chính là cai
quản và thánh hoá các phần tử bên trong Hội Thánh nhờ ban các phép Bí Tích,
nhưng chính các Kitô hữu Giáo Dân mới là những phần tử, vì sự hiện diện mọi lúc
và mọi nơi của họ trong mọi lãnh vực trần thế đa dạng, nên mới có điều kiện
nhất trong việc không ngừng thực thi mệnh lệnh “hãy đi rao giảng” mà Đức Kitô
đã để lại cho Hội Thánh trước khi về trời.
3/ Nội dung
việc Rao Giảng Tin Mừng
Trước hết ta tạm
phân biệt nội dung ‘Rao Giảng Tin Mừng’ mà ta đang đề cập tới ở đây khác với
việc truyền giáo, tức truyền đạo, tức gầy dựng một cộng đoàn gồm các kẻ tin và
chịu phép rửa, tức thiết lập cũng như bồi đắp ở đó sự hiện diện của Giáo Hội
địa phương vững chắc(như một cơ cấu đạo giáo). Ở đây ta hiểu rao giảng Tin Mừng
trong nội dung của việc nhập thể của chính Đức Giêsu Kitô, là đưa tình yêu
Thiên Chúa và các giá trị của nó thâm nhập sâu xa vào mọi thực tại của cuộc
sống loài người, tới mọi nền văn hoá, mọi sinh hoạt trần thế, mọi tri thức và
tinh thần, thậm chí mọi niềm tin tiềm tàng trong tâm khảm mỗi con người và mỗi
dân tộc. Tông Huấn Người Kitô Hữu Giáo Dân đã nói tới điều này trong số 34, khi
giải thích: “Mở toang cánh cửa đón Đức Kitô vào, việc đón nhận Ngài vào
khoảng trống của cuộc sống con người không mang chút đe doạ nào cho con người
và xã hội, trái lại là lối duy nhất, nếu người ta muốn nhận ra từng con người
trong sự thật trọn vẹn của nó, và độ cao của con người trong những giá trị đích
thực của nó”.
Như vậy chấp nhận
Tin Mừng không phải là một điều gì thêm thắt vào cuộc sống con người trong tư
cách cá nhân cũng như tập thể, nhưng là một điều mà con người mọi nơi và mọi
thời đại đều rất cần, hầu làm cho cuộc sống của họ đạt được sự phong phú và
tròn đầy đích thực. Đức Gioan Phaolô II đã tóm kết nhiệm vụ cao đẹp này dành
cho các Kitô hữu Giáo Dân trong những lời rất thống thiết sau đây: “Tôi hết
lòng khiêm tốn và tin tưởng nài xin anh chị em hãy để cho Đức Kitô nói với nhân
loại. Vâng, chỉ có Ngài mới có những lời ban sự sống, hơn nữa một sự sống dồi
dào và vịnh cửu”.
4/ Các lĩnh vực chính
mà Tin Mừng cần cho con người và nhân loại
Tin Mừng không chỉ
cần thiết cho con người và nhân loại vì mang lại cho họ cuộc sống đời đời (theo
nghĩa cứu vớt linh hồn họ), nhưng ngay từ đời này và ngay từ bây giờ, như Đức
Kitô không ngừng minh định ‘để cho được sống, và sống dồi dào’ (Ga
10:10). Tông Huấn CFL số 34 tiếp tục chỉ cho thấy: để
có thể rao giảng Tin Mừng cách hữu hiệu, người giáo dân trước hết phải xoá bỏ
được khoảng cách giữa Tin Mừng với cuộc sống hằng này trong chính đời sống của
họ; họ sẽ “sáng tạo được một thể thống nhất trong cuộc sống, trong các sinh
hoạt thường nhật, nơi bản thân, trong gia đình, nơi xã hội… nhờ được Tin Mừng
gợi hứng và giúp sức thể hiện cách đầy đủ”. Từ đó trong cuộc tham gia cách
đầy đủ vào cuộc sống cá nhân, gia đình, và mọi hình thái xã hội dưới mọi phương
diện, người Giáo Dân sẽ làm cho Tin Mừng có dịp được rao giảng và loan truyền
trong toàn thể mọi thực tại của trần thế. Trước khi cứu vớt họ cách vĩnh viễn
cho cuộc sống đời đời, Tin Mừng qua cuộc nhập thể và cứu độ của Đức Giê-su, đã
đi vào trong thế giới và biến đổi nó ngay giữa các thực tại trần thế.
Như vậy chúng ta có
thể liệt kê ra đây cách tổng quát các lĩnh vực chính của thực tại chúng ta cần
đưa tới Tin Mừng (hay đúng hơn Tin Mừng được đưa tới nó) hầu được biến đổi và
làm cho cho các thực tại đó trở nên phong phú:
Lĩnh vực nhân bản
với tất cả mọi chiều kích con người đã được Đức Kitô tiếp nhận lấy cho mình khi
nhạp thể, cả về thể lý, tri thức và tinh thần, cũng như những gì chân chính
trong niềm tin của các tôn giáo và văn hoá truyền thống của họ.
Lĩnh vực gia đình
với tất cả chiều kích sâu xa của nó, như tôn trọng sự sống, tình yêu hôn nhân,
quên mình để sống yêu thương và phục vụ lẫn nhau, và nhất là tha thứ và chấp
nhận nhau trong cuộc sống thường ngày.
Lĩnh vực xã hội
trong tất cả mọi chiều kích đa diện và phức tạp của nó, nhất là trong thế giới
ngày nay. Một số lĩnh vực nổi cộm như văn hoá, kinh tế, chính trị, di dân, hay
truyền thông… hiện đang có nhu cầu cao cần phải được Phúc Âm hoá cấp thời, và
kêu gọi các Giáo Dân khẩn trương mang Tin Mừng tới cho chúng.
Ta sẽ triển khai
các lĩnh vực này cách chi tiết hơn trong chương IV của chương trình này.
Sau hết, Tông Huấn
cũng không quên đề cập tới trường hợp, một số giáo dân nào đó lãnh nhận được ơn
gọi đặc biệt là lên đường ra đi tới các vùng đất xa lạ để rao giảng Tin
Mừng cho các dân tộc chưa hề biết tới Đức Kitô (thường được gọi là truyền giáo
ad gentes). “Lệnh truyền của Đức Kitô: “Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ” vẫn
được rất nhiều giáo dân quảng đại hưởng ứng. Họ sẵn sàng từ giã môi trường
sống, công ăn việc làm, quê hương sứ sở mình, để đến phục vụ trong những miền
truyền giáo, ít là trong một thời gian nhất định” (CFL số
35).
Câu hỏi gợi ý:
Có bao giờ bạn coi
ơn gọi giáo dân của mình chính là nhận lãnh một tác vụ chuyên biệt trong Hội
Thánh là rao giảng Tin Mừng cho thế giới không?
Bạn có thấy chính
các giáo dân trong môi trường bạn đang sống phải là cộng sự hay tác nhân của
việc rao giảng Tin Mừng cho những người khác không? Lĩnh vực nào mà bạn cho là
thiết yếu nhất phải được Tin Mừng hoá trong điều kiện sống cụ thể của bạn?
Làm từ thiện tự nó
đã phải là rao giảng Tin Mừng chưa? Nếu có hay không thì tại sao?
Lm Gioan Nguyễn Văn Ty
PHẦN MỤC VỤ
Cuộc hội nhập văn hoá trong lịch sử dân tộc Việt Nam
Lời mở
Văn hoá của một dân
tộc là kết tinh của nhiều nền văn hoá trong suốt dòng lịch sử của dân tộc đó.
Rồi khi nhiều người đón nhận những giá trị mới qua cuộc hội nhập văn hoá, họ
lại tạo nên một nền văn hoá mới để truyền lại cho thế hệ mai sau. Từ trước đến
nay, chưa có nhiều người tìm hiểu về những giá trị của các nền văn hoá khác
nhau đã hội nhập và kết tinh thành nền văn hoá Việt Nam hiện nay như thế nào.
Vì thế, qua bài này, chúng ta muốn tìm hiểu cách khái quát cuộc hội nhập của
văn hoá trong dòng lịch sử dân tộc Việt Nam để có thể xây dựng những giá trị
mới và đẩy lùi những nét tiêu cực có thể có trong cuộc hội nhập này khi so sánh
với nền văn hoá toàn diện và liên đới của đạo Công giáo mà chúng ta tìm hiểu ở
bài 5. Chúng ta tạm chia lịch sử văn hoá dân tộc Việt Nam thành 4 thời kỳ.
1. Thời kỳ đầu tiên
từ đời vua Hùng đến năm 111 TCN
1.1. Văn hoá thị
tộc
Trên đất nước Việt
Nam hiện nay, các nhà khảo cổ học phát hiện những di tích và hoá thạch người
“Homo erectus” khoảng 500 ngàn năm thuộc thời Đồ Đá Cũ [16]. Cách ngày nay
khoảng 4.000 năm đến 5.000 năm, các lớp cư dân nguyên thuỷ từ miền đồi núi tiến
xuống khai phá các vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, sông Cửu Long và các đồng
bằng ven biển, phát triển nền nông nghiệp lúa nước. Nền văn hoá bộ tộc thiểu số
trải dài trên những núi đồi chuyển thành nền văn hoá làng xã với những ruộng
vườn cố định.
Thời kỳ Hồng Bàng,
theo truyền thuyết và dã sử, bắt đầu từ năm 2879 TCN cho đến năm 258 TCN với 18
đời Vua Hùng [17]. Từ đầu thiên niên
kỷ II TCN, Việt Nam bước vào thời đại kim khí, từ đồ đồng đến đồ sắt. Đó là văn
hoá Đông Sơn với nhà nước Văn Lang-Âu Lạc, văn hoá Sa Huỳnh với nhà nước Champa
ở miền Trung và văn hoá Óc Eo với nhà nước Phù Nam ở miền Nam. Ba dòng văn hoá
này đã dần dần giao lưu và hội nhập vào nhau tạo thành văn hoá nguyên thuỷ của
Việt Nam.
Văn hoá thị tộc là
nền văn hoá cơ sở của xã hội nguyên thuỷ, bao gồm nhiều gia đình lớn, có cùng
một tổ tiên và có nền kinh tế chung: có chung tư liệu sản xuất, lao động tập
thể và hưởng chung thành quả lao động. Các thị tộc của người Bách Việt sống
theo tổ chức xã hội này. Hạt nhân của chế độ công xã nguyên thuỷ này là thị tộc
mẫu quyền, được gặp thấy trong cả 3 nền văn hoá Bắc Trung Nam, cho đến khi
người Việt sống dưới chế độ Bắc thuộc mới đổi sang chế độ phụ quyền. Nền văn
hoá thị tộc ngoài việc đề cao sức mạnh cơ bắp để lao động kiếm ăn, còn mang đặc
tính đề cao sự sinh sản để bảo tồn thị tộc, do đó ta thấy người Việt cả 3 miền
đều có tín ngưỡng phồn thực, thờ sinh thực khí (linga và yoni) và thờ hành vi
giao phối[18].
Văn hoá thị tộc
theo mẫu quyền còn nổi bật với tín ngưỡng thờ thần Mẫu. Các vị thần ở Việt Nam
chủ yếu là nữ giới. Đạo Mẫu này càng phát triển hơn trong nền văn hoá nông
nghiệp (các bà thần Mây, Mưa, Sấm chớp), sau này hoà nhập cả với đạo Lão và đạo
Phật du nhập từ Trung Hoa. Các vị thần Mẫu được nhiều nơi tôn kính: Thánh Mẫu
Liễu Hạnh, Thánh Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải ở miền Bắc; Tứ Vị Thánh Nương, Bà
Ngũ Hành, Thiên Y A Na ở miền Trung; Bà Chúa Động, Bà Chúa Xứ, Bà Đen ở miền
Nam. Ngày 1/12/2016, tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt đã được UNESCO công nhận
là di sản văn hoá phi vật thể, đại diện của nhân loại[19].
1.2. Nền văn hoá
Nông nghiệp
Trong khi những bộ
tộc người Việt ở vùng núi còn giữ nét văn hoá thị tộc thì những người Việt ở
vùng đồng bằng hình thành nên nền văn hoá nông nghiệp với một số giá trị mới.
Nền văn hoá này tồn tại hầu như trong suốt dòng lịch sử dân tộc cho đến năm
1945, khi làn sóng đô thị hoá và những ý thức hệ mới tràn vào nước ta.
Những giá trị của
nền văn hoá nông nghiệp:
- Trọng tĩnh: nghề
trồng trọt buộc con người sống định cư, chờ một thời gian lâu để cây trồng sinh
hoa, kết trái và thu hoạch, nên con người trọng đời sống an tĩnh (an cư lạc
nghiệp), nhà cửa ổn định, không thích di chuyển.
- Hoà hợp với thiên
nhiên: nghề trồng trọt phụ thuộc hầu như hoàn toàn vào thiên nhiên (mưa
thuận, gió hoà, mưa nắng nhờ Trời) nên con người tôn thờ các sức mạnh
thiên nhiên, rút ra nhiều kinh nghiệm từ thiên nhiên (được mùa lúa, úa
mùa cau; nhiều nắng tốt dưa, nhiều mưa tốt lúa)…
- Trọng đức, trọng
tình, trọng nghĩa, trọng văn: do sống chung với nhau thành từng làng, trong một
không gian tương đối hẹp, có luỹ tre bao bọc cũng như cùng làm việc chung với
nhau, đổi công cho nhau, nên cộng đồng trọng những người có đức hạnh, có tình
nghĩa để bảo đảm cho đời sống chung được tốt đẹp. Nhờ sống gần nhau, dễ dàng
bảo vệ lẫn nhau nên người ta trọng những nét đẹp của văn hoá hơn võ thuật, tài
trí. So với những người dân tộc sống theo kiểu du mục: từng gia đình sống riêng
rẽ, để đưa đoàn gia súc của mình đi từ đồng cỏ này sang đồi núi khác, hằng ngày
phải đối mặt với thú dữ, bất kể thời tiết nắng mưa, sống thế nào cũng không bị
ai kết án nên người dân du mục trọng võ, trọng tài, trọng lý, trọng vật.
Thật ra, những giá
trị của văn võ, tài đức, lý tình, nghĩa vật đều lệ thuộc vào nhận thức của con
người về giá trị của chúng. Khi có một nhận thức đầy đủ và toàn diện về nền văn
hoá, người ta sẽ thấy cần phải văn võ song toàn, tài đức trổi vượt, tình lý
trọn vẹn, nghĩa vật cân bằng.
- Ứng xử linh hoạt
và khoan dung: do không thể chống lại thiên nhiên và cộng đồng bằng sức mạnh cá
nhân và tài trí, nên người theo văn hoá nông nghiệp thường ứng xử linh hoạt (ở
bầu thì trọn, ở ống thì dài), dễ bị hùa theo đám đông (xấu đều hơn tốt
lỏi), âm thầm chịu đựng những chướng ngại vật trên đời (tránh voi chẳng
xấu mặt nào), nhẫn nại làm việc và hy vọng sẽ qua được cơn hoạn nạn, thiên
tai (ngày mai trời lại sáng).
- Văn hoá nông
nghiệp dễ tiếp nhận sự khác biệt của các ý thức hệ, các tôn giáo như đã quen
chịu đựng nắng mưa, bão lụt của trời đất. Nhưng thái độ linh hoạt này lại có
thể dẫn đến thái độ ứng xử ba phải (cái gì cũng đúng), thiếu chính xác trong
giờ giấc vì đã quen hành động theo con nước hay theo mùa mỗi năm, đối xử với
nhau theo tình cảm nên thiếu khách quan, thiếu nguyên tắc trong tổ chức, thiếu
tôn trọng pháp luật (một bồ cái lý không bằng một tí cái tình; yêu nhau cau
bảy bổ ba, ghét nhau cau bảy bổ ra làm mười; yêu nhau yêu cả đường đi, ghét
nhau ghét cả tông chi họ hàng).
2. Văn hoá thời kỳ
Bắc thuộc (111 TCN-938)
Năm 179 TCN, nước
Âu Lạc do An Dương Vương lập nên bị Triệu Đà, vua nước Nam Việt xâm chiếm, rồi
bị nhà Hán độ hộ từ năm 111 TCN cho đến khi Ngô Quyền thắng quân Nam Hán trên
sông Bạch Đằng năm 938 và lập chủ quyền cho đất nước.
2.1. Văn hoá nông
nghiệp với tinh thần phản kháng
Người Việt liên kết
với nhau trong các cộng đồng làng xã, bảo tồn tiếng Việt và các phong tục trong
cộng đồng (phép vua thua lệ làng), chống lại các chính sách đồng hoá của
người Trung Quốc.
- Người Việt giữ
nguyên những nét căn bản của nền văn hoá nông nghiệp vì hầu hết vẫn sinh sống
trong những làng xã và hành nghề nông với đời sống tự cung, tự cấp. Với ý thức
phản kháng người Trung Quốc, người Việt vẫn giữ cách ăn mặc, nói năng của mình.
- Tổ chức gia đình
và xã hội có sự thay đổi lớn: văn hoá dần dần nghiêng về chế độ phụ hệ, người
cha là rường cột trong gia đình, gia đình trọng nam khinh nữ, xã hội theo chế
độ đa thê cho phép người đàn ông có nhiều thê thiếp. Xã hội nông nghiệp cần
nhiều nhân công để lao động, nên dễ dàng đón nhận các giá trị văn hoá mới này.
- Thái độ ứng xử cá
nhân: chính quyền dùng chính sách chia để trị, nên gây chia rẽ giữa các địa
phương, dòng họ, cá nhân với nhau khiến người Việt thường nghi ngờ, ngại ngùng
với người lạ, không dám bày tỏ hay đóng góp ý kiến của mình, im lặng trước bất
công khiến người khác tưởng lầm họ là kẻ đồng loã, thường tỏ thái độ bên ngoài
hoà hoãn, chịu đựng, nhưng bên trong chỉ muốn ăn tươi, nuốt sống quân thù. Họ
có thói quen giả vờ đồng thuận, không nói thật lòng mình, nói xấu kẻ thù vắng
mặt, bao che cho đồng bào trước nỗi bất công, cùng giúp nhau lấy cắp của công
vì tất cả tài sản công đều do chính tay họ làm ra. Họ thường tỏ vẻ chăm chỉ làm
việc trước mắt kẻ xâm lược, nhưng khi kẻ thù quay lưng là họ ngưng làm hay chỉ
làm việc cầm chừng vì không muốn làm lợi cho kẻ thù.
Nét văn hoá ứng xử
này trải qua hàng ngàn năm bị đô hộ đã tạo thành bản sắc của người Việt, nên
khi không còn sống dưới ách kẻ xâm lăng, nhiều người Việt vẫn giữ bản sắc đó.
Thái độ này cần được sửa sai bằng những nhận thức mới về giá trị con người, về
công bằng xã hội, bằng những kỹ năng làm việc chung và hợp tác với nhau vì công
ích, và bằng nhận thức về một Thiên Chúa, một ông Trời nhìn thấu mọi sự và xét
xử công minh.
2.2. Đón nhận một
số giá trị mới của văn hoá Trung Quốc
Qua việc tiếp xúc
trực tiếp hay gián tiếp với người Trung Quốc, người Việt nhận ra nhiều giá trị
mới của văn hoá Trung Quốc.
Trước hết là sức
mạnh quân sự với chiến lược, vũ khí, hoả pháo, chiến thuyền khiến người Trung
Quốc thắng được Việt Nam. Tiếp theo là chữ viết và văn hoá Trung Quốc trổi vượt
so với tiếng Việt còn non trẻ. Trước khi bị người Trung Quốc đô hộ, nước Văn
Lang thời Hùng Vương đã có chữ viết riêng, gọi là chữ Khoa Đẩu, giống hình con
nòng nọc[20]. Tuy nhiên, các
giá trị văn hoá mới này bị người Việt nghi ngờ, nhiều làng xã tẩy chay, vì
người Việt vẫn ý thức về ý đồ bành trướng, đồng hoá của người Trung Quốc.
3. Văn hoá thời kỳ
quân chủ độc lập (938-1945)
3.1. Lịch sử: thời kỳ này kéo
dài 10 thế kỷ, từ thế kỷ X đến thế kỷ XX, với ba triều đại nhỏ: Ngô (939-965),
Đinh (968-979), Tiền Lê (980-1009); 4 triều đại lớn: Lý (1009-1225), Trần
(1226-1400), Lê (1428-1788), Nguyễn (1802-1945); xen kẽ với 3 triều đại nhỏ là
Hồ (1400-1407), Hậu Trần (1407-1414), Tây Sơn (1788-1802).
Từ thế kỷ XVI, quan
hệ giao thương với nước ngoài phát triển mạnh, dẫn đến sự phồn vinh của nhiều
đô thị, cảng biển. Văn hoá dân tộc phát triển và giao lưu với các nước trong
khu vực và một số nước phương Tây như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh ,
Pháp. Đây cũng là thời kỳ Thiên Chúa giáo bắt đầu được truyền bá tại Việt Nam.
Các làng nghề thủ công phát triển ở miền Bắc với nghề ươm tơ tằm, dệt lụa và ở
miền Trung, miền Nam với nghề làm đồ gốm. Đây là những sản phẩm để trao đổi với
nước ngoài.
Triều đại Tây Sơn,
với vua Quang Trung Nguyễn Huệ, có nhiều chính sách cải cách về ruộng đất và
văn hoá (coi trọng chữ Nôm) có lợi cho người dân, nhưng chỉ tồn tại trong thời
gian ngắn. Chúa Nguyễn Ánh, với sự giúp đỡ của người Pháp, đã đánh bại nhà Tây
Sơn, mở đầu triều đại nhà Nguyễn khi lên ngôi vua năm 1802, đóng đô ở Phú Xuân,
Huế, đặt quốc hiệu là Việt Nam. Trước sức mạnh quân sự, kỹ thuật vượt trội của
phương Tây, triều Nguyễn không có những cải cách để khắc phục tình trạng lạc
hậu của đất nước, dùng chính sách bế quan toả cảng và hệ tư tưởng Nho giáo
chống lại hệ tư tưởng Thiên Chúa giáo nên dẫn đến cuộc xâm lược của thực dân
Pháp (1858-1884) và nước ta rơi vào vòng nô lệ phương Tây (1884-1945).
3.2. Văn hoá
Người Việt vẫn giữ
được những nét tiêu biểu của nền văn hoá nông nghiệp nhưng nhận ra giá
trị cao cả, linh thiêng của đất nước vì đã phải trả giá đắt cho nền độc lập và
tự do của dân tộc qua các cuộc chiến tranh. Do phải chịu những cuộc nội chiến
giữa các triều đại, người Việt thấy đời sống có vẻ tạm bợ, nặng nề, nên thường
có tâm trạng bi quan, thiếu vẻ dấn thân, yêu đời.
Phật giáo chiếm địa
vị độc tôn về tín ngưỡng trong dân chúng, nhất là trong 2 triều Lý Trần. Những
giá trị văn hoá của Phật giáo để lại là thái độ bi quan, yếm thế, cho đời là vô
thường, là bể khổ và giữ cho con người ăn ngay ở lành để được đầu thai vào kiếp
sau tốt đẹp hơn. Vì được quần chúng tôn trọng và chính quyền ưu đãi, nên nhiều
vị tu hành đánh mất tư cách đạo đức. Do đó, đại đa số dân chúng quay trở về với
việc thờ cúng ông bà tổ tiên, đạo Mẫu và thờ các vị Thành Hoàng.
Nhà nước phong kiến
đã chọn Khổng giáo làm quốc giáo để bảo đảm quyền lực, nhằm tổ chức một xã hội
ổn định, trật tự, kỷ cương ở trần thế, chứ không quan tâm đến những chuyện thần
thánh ở thế giới mai sau. Nho giáo chiếm lĩnh đời sống tinh thần qua những văn
thơ, kinh sách được phổ biến trong dân chúng và dần dần chiếm thế độc tôn từ
thế kỷ XV trở đi. Hệ thống tư tưởng Nho giáo tuy giữ cho dân tộc ổn định trong
thời đại nhiễu nhương nhiều thế kỷ, nhưng lại kìm hãm sự phát triển, đổi mới,
mở ra cho khoa học tiến bộ. Những nhà trí thức thường chỉ quanh quẩn với những
vần thơ, bài phú ca tụng dòng họ, tìm danh lợi trong chốn quan trường.
Bắt đầu từ thế kỷ
XVI, những giá trị mới của Kitô giáo bắt đầu được truyền bá ở Việt Nam tạo nên
những xung đột dữ dội với hệ thống tư tưởng của Khổng giáo. Nhờ thông thạo
tiếng Việt và sáng chế ra cách ghi âm tiếng Việt bằng chữ cái Latinh thay cho
chữ Nôm, các nhà truyền giáo dòng Tên từ năm 1615-1665 đã giới thiệu những giá
trị nền tảng của Kitô giáo về nền dân chủ, về gia đình một vợ một chồng sống
chung thuỷ với nhau suốt đời, về sự bình đẳng nam nữ vì đều có nhân phẩm như
nhau, về những khoa học thường thức để giúp cho đời sống khoẻ mạnh và tươi đẹp
nên được nhiều người Việt đón nhận.
Sau khi quân đội
Pháp bắn thị uy vào cảng Đà Nẵng năm 1847 và nhanh chóng chiếm được 3 tỉnh miền
Đông Nam Kỳ năm 1862, cuộc bách hại người Công giáo trở nên hết sức khốc liệt
vì vua quan đổ tội cho người Công giáo theo gót kẻ xâm lăng. Nhiều đám dân
chúng cũng hùa theo quân lính triều đình cướp phá các làng trù phú của người
Công giáo với khẩu hiệu “bình Tây sát Tả”. Tuy nhiên nhiều nhà Nho nổi tiếng
yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Kỳ ngoại hầu Cường Để, Lương Văn
Can, qua các phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, đã minh oan cho người
Công giáo và hô hào toàn dân hãy đón nhận những giá trị mới về dân chủ, bình
đảng nam nữ, hôn nhân một vợ một chồng, chữ Việt và tinh thần cởi mở với khoa
học kỹ thuật của người Công giáo[21]. Những giá trị của
nền văn hoá Công giáo đã được toàn dân Việt đón nhận để bước vào một giai đoạn
mới của đất nước.
4. Văn hoá thời kỳ
phát triển và hội nhập với thế giới (1945- nay)
4.1. Lịch
sử. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, qua Hiệp định
Genève, quân Pháp rút khỏi miền Bắc Việt Nam. Việt Nam được chia thành 2 miền
theo hai ý thức hệ khác nhau: miền Bắc theo chủ nghĩa Cộng Sản, miền Nam theo
chủ nghĩa Tư bản với tên nước là Việt Nam Cộng Hoà. Hai miền lại bắt đầu chiến
tranh khốc liệt cho đến ngày 30/4/1975. Cuộc hội nhập vào nền văn hoá thế giới
của dân tộc Việt Nam bắt đầu từ 1986 khi Đảng Cộng Sản Việt Nam công bố thời kỳ
đổi mới và kéo dài đến ngày nay. Việt Nam gia nhập WTO (Tổ chức Thương mại Thế
giới) vào ngày 7-11-2006, và được công nhận là thành viên chính thức của tổ chức
này vào ngày 11-1-2007. Việc gia nhập WTO đã mở ra cơ hội lớn người Việt hoà
nhập vào nền văn hoá thế giới với xu hướng đô thị hoá, hiện đại hoá nhờ khoa
học kỹ thuật và mở ra với mọi nguồn văn hoá đại chúng nhờ sách báo, phim ảnh,
truyền hình, intrenet và điện thoại thông minh.
4.2. Văn hoá.
Những giá trị văn
hoá được tạo nên trong thời kỳ xung đột mãnh liệt giữa các ý thức hệ khi hai
miền Nam Bắc trở thành tiền đồn của hai thế giới Tư bản và Cộng sản, cũng như
những giá trị văn hoá của các dân tộc phản ánh tâm tư của nhân loại trong một
giai đoạn nhất định của lịch sử, đều đáng trân trọng. Chúng giống như những
chất liệu đường, chanh, muối, nước, tự bản thân và để riêng rẽ thì rất tốt,
nhưng khi hoà trộn vào nhau mà không được điều chỉnh định lượng cho phù hợp thì
không thể trở thành ly nước chanh ngon ngọt, bổ dưỡng, trái lại, còn làm nguy
hại đến sức khoẻ con người. Đấy là trường hợp của dân tộc Việt Nam trong thời
kỳ hội nhập và phát triển với thế giới hiện nay khi có quá nhiều những giá trị
đối chọi nhau.
Nhiều giá trị trong
nền văn hoá truyền thống bị loại bỏ như niềm tin vào Trời, giá trị của các tôn
giáo, vì một số người quá say mê cái mới, nhất là khi chính quyền công khai
loại bỏ chúng ra khỏi chương trình giáo dục, đào tạo con người. Nhiều người trẻ
choáng ngợp trước vẻ hào nhoáng của khoa học hiện đại nên bỏ hết những kinh
nghiệm ngàn đời của tổ tiên. Người ta bị cuốn hút vào cơn lốc xoáy của việc
hưởng thụ vật chất, đánh giá nhau theo những phương tiện, bằng cấp, tài sản bên
ngoài, nên không còn trọng tình nghĩa, đức hạnh, từ đó gây nên sự đổ vỡ hạnh
phúc gia đình, suy thoái trầm trọng đạo đức xã hội. Tội ác, tham nhũng, bất
công và nhiều tệ nạn xã hội tràn lan khắp nơi. Vấn đề cần giải quyết là chính
quyền cũng như mỗi người dân nhận thức được giá trị của việc hội nhập văn hoá
và thực hiện việc hội nhập này như thế nào cho có kết quả tốt đẹp.
Lời kết
Vì thế, khi tìm
hiểu về cuộc hội nhập văn hoá trong lịch sử dân tộc Việt Nam và kết quả hiện
nay của nền văn hoá dân tộc, mỗi người chúng ta đều có trách nhiệm phân định
những giá trị nào cần tiếp tục gìn giữ và phát huy, giá trị nào nên loại bỏ
hoặc điều chỉnh mức độ hợp lý tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Dù đây là
trách nhiệm nặng nề của chính quyền và những người lãnh đạo trong cộng đồng xã
hội, nhưng cá nhân mỗi người, như một thực thể chịu ảnh hưởng của văn hoá, vẫn
là chủ thể tác động vào nền văn hoá và thay đổi được những giá trị cho thế hệ
tương lai. Như thế chúng ta vẫn có quyền sống trong niềm tin và hy vọng vào một
tương lai tốt đẹp cho từng người cũng như cho dân tộc Việt Nam.
Câu hỏi gợi ý
1. Bạn đã thu nhận
được những giá trị nào trong dòng lịch sử văn hoá của dân tộc?
2.Bạn hãy liệt kê
những giá trị lỗi thời mà hiện nay người Việt đang nắm giữ và đề nghị sửa đổi
bằng giá trị nào của nền văn hoá Công giáo?
Lm. Antôn Nguyễn
Ngọc Sơn
[1] Có 12 nước
tham dự: Băng-la-đét (Bangladesh), Đức Quốc (Germany), Hàn Quốc (Korea),
Ấn Độ (India), In-đô-nê-xi-a (Indonesia), Mã-lai (Malaysia),
Mi-an-ma (Myanmar), Phi-líp-pin (Philippines), Xing-ga-po (Singapore),
Xri Lan-ka (Sri Lanka), Thái Lan (Thailand), Việt Nam
(Vietnam).
[2] AsIPA Desk (Asian
Integral Pastoral Approach Desk): Bàn làm việc của AsIPA. Đây
là cơ quan giúp hiện thực hoá một trong những những định hướng đậm tính “Giáo
hội học” và “Sứ vụ học” của FABC về những công đoàn thời Giáo
hội sơ khai: một cách thức “mới” để thể hiện niềm tin-cậy-mến của Giáo hội tại
Châu Á (a new way of being Church in Asia), phát triển chương trình
“Tiếp cận mục vụ toàn diện tại Châu Á” (Asian Integral Pastoral Approach
Desk).
[3] BEC
Office (Basic Ecclesial Community Office): Văn
phòng Cộng Đoàn Giáo Hội Cơ Bản (CĐGHCB).
[4] “Small
Christian communities (SCCs) evangelize families towards communion and mission”.
[5] Office of
Laity and Family Federation of Asian Bishop’s Conferences – Snehalaya Family
Centre, Victoria School Campus, L. J. Road, Mahim, Mumbai; India – 400 016.
[6] Mt 20,9-10.
[7] ĐGM. Louis
Nguyễn Anh Tuấn hướng dẫn đoàn.
[8] Gồm: “(1)
Sharing and networking on SCCs/BECs promoting the New Way of Being Church in
Asia; (2) Building fraternal communion among participants; (3) Publishing
General As-sembly documentation and introducing available texts based on the
theme. Specific objectives of the GA VIII”.
[9] Gồm: “(1) To
discover how SCCs, nourished by the Word of God, can be instruments to live the
Gospel of love in families; (2) To find ways and means for families to be
involved in the mission of the church in the neighbourhood through SCCs; (3) To
explore how SCCs/BECs can promote the fuller growth of children, youth, men,
women and the elderly, as a family of families”.
[10] X. Mc 10,45.
[11] X. G.
Aranha, The mission of the family in the Church in the light of can.
226§1 (Rô-ma 2002), 123.
[12] X. BGL,
đđ. 515-552.
[13] X. BGL,
đđ. 305; 536.
[14] Nguyên văn: “Small
Christian communities (SCCs) evange-lize families towards communion and mission”.
[15] Nghĩa là, “Small
Christian communities evangelize the individuals to evangelize families to
evangelize parishes to evangelize dioceses... towards communion and mission”.
[16] X. Hội đồng
Quốc gia Chỉ đạo Biên soạn, Từ điển Bách khoa Việt Nam, Mục
từ Việt Nam, NXB TĐBKVN, 2005, tr. 890-892.
[17] X. Ngô Sĩ
Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, đôi khi gọi tắt là Toàn thư, là bộ
quốc sử viết bằng văn ngôn của Việt Nam, viết theo thể biên niên, ghi chép lịch
sử Việt Nam từ thời đại truyền thuyết Kinh Dương Vương năm 2879 TCN đến năm
1675 đời vua Lê Gia Tông nhà Hậu Lê.
[18] X. Toan
Ánh, Tín ngưỡng Việt Nam, Quyển Thượng, NXB Tp.HCM.
[19] X. Hội đồng
Giám mục Việt Nam, Niên giám 2016 Giáo hội Công giáo Việt Nam, NXB
Tôn Giáo, 2017, tr.470.
[20] X. Văn Lang
thời Hùng Vương đã từng có chữ viết riêng? Internet, 16/4/2016, về nhà nghiên
cứu Đỗ Văn Xuyền.
[21] X. Hội đồng
Giám mục Việt Nam, Niên giám 2016 Giáo hội Công giáo Việt Nam, NXB
Tôn Giáo, tr. 178-185