Ủy Ban Giáo Dân
Hội đồng Giám Mục Việt Nam
PHẦN TU ĐỨC
SỐNG TÌNH LIÊN ĐỚI (Mc 2, 1-12)
Khi phục vụ trong Hội đồng mục vụ giáo xứ, không ít
lần chúng ta đối diện thách đố trong việc xây dựng tương quan mục vụ, có khi
chúng ta cảm nghiệm tình trạng “bại liệt” ở đâu đó trong tương quan với
tha nhân, khi phục vụ hoặc khi cộng tác trong việc chung; có khi chúng ta từng
bị hay đang bị “bại liệt” trong tương quan với chính mình, với Thiên
Chúa, và với nhau. Chứng “bại liệt” vô hình nhưng lại gây hậu quả hữu hình,
đó là tình trạng im lặng bàng quan, phê bình tiêu cực, hay tẩy chay hoặc
“ném đá” nhau… Như anh bại liệt và các bạn (Mc 2,1-12), chúng ta
cần lời bao dung tha thứ của Đức Giêsu, cho chính mình hoặc cho anh chị em
mình, để mỗi người chúng ta có sức mạnh và tình yêu đảm nhận gánh nặng phục vụ
cộng đoàn.
Theo trình thuật Mc 2,1-12, anh bại liệt và các bạn có
vẻ lọt thỏm và mất hút giữa đám người rất đông đang tụ tập quanh Đức Giêsu,
nhưng họ lại thực hiện một hành động táo bạo khiến họ đến gần Đức Giêsu và trở
nên nổi bật: “Nhưng vì dân chúng quá đông, nên họ không sao khiêng đến gần
Người được. Họ mới dỡ mái nhà, ngay trên chỗ Người ngồi, làm thành một lỗ hổng,
rồi thả người bại liệt nằm trên chõng xuống.” (2,4) Đáp lại hành động táo
bạo này, Đức Giêsu làm cho mọi người kinh ngạc khi ban lời tha thứ: “Thấy họ
có lòng tin như vậy, Đức Giê-su bảo người bại liệt: ‘Này con, con đã
được tha tội rồi.’” (2,5) Trong hoàn cảnh này, người bệnh và có khi cả
chúng ta nữa, chờ đợi một phép lạ chữa lành thể lí, vì đó là một nhu cầu khẩn
cấp, nhưng Đức Giêsu lại nói với người bại liệt: “Này con, con đã được tha
tội rồi”. Đức Giêsu chữa lành người bại liệt cả thể lí và tinh thần, nhưng
nếu Người chữa lành thể lí cho anh ngay từ đầu, chắc sẽ chẳng gây ra cớ cho
người ta xì xầm, thậm chí lên án: “Sao ông này lại dám nói như vậy? Ông ta
nói phạm thượng! Ai có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa?” (2,7).
Chữa lành thể lí đúng là việc khẩn cấp, nhưng được
lành bệnh, phục hồi sức khỏe thể lí cũng đâu giải quyết được hết mọi vấn đề
cuộc sống. Thật vậy, nếu xảy ra phép lạ chữa lành thể lí, thì sức khỏe mà phép
lạ ấy đem lại cũng đâu tồn tại mãi; người bại liệt được chữa lành, nhưng một
ngày kia anh ta lại sẽ “bại liệt”, liệt mãi mãi không thể đứng dậy, nếu
không đón nhận ơn phục sinh. Đàng khác, ngoài tật bệnh thể lí, người bại liệt
và cả chính chúng ta nữa, còn có những vấn đề sâu xa trong tâm hồn như những
vết thương lòng, cảm thức tội lỗi, bại liệt trong tương quan với Thiên Chúa-bản
thân-và tha nhân… Chỉ nơi Đức Giêsu, chúng ta được lãnh nhận ơn tha thứ và chữa
lành: “Trong hai điều: một là bảo người bại liệt: ‘Con đã được tha tội rồi’,
hai là bảo: ‘Đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi’, điều nào dễ hơn? Vậy,
để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội” (2,9-10).
Khi ban ơn tha thứ cho người bại liệt, Đức Giêsu muốn
đưa dẫn anh đi xa hơn việc tìm lại sức khỏe thể lí, đó là đi vào sự sống đích
thực; đồng thời, người cũng mặc khải chính căn tính của Người là Con Thiên
Chúa. Được chữa lành và được tha thứ, cả hai đều cần thiết và quan trọng cho sự
sống con người; chúng ta không thể sống bình an khi mang vác những tổn thương
và tương quan “bại liệt”. Đức Giêsu gắn liền hai ơn huệ này với nhau,
nhưng luôn hướng ơn chữa lành đến ơn tha thứ, vốn là ơn huệ thiết yếu cho sự
sống con người. Khi làm như thế, Đức Giêsu táo bạo đánh liều chính sự sống bản
thân, và sẽ táo bạo đến tận cùng bằng cái chết trên thập giá, để tha thứ và
chữa lành nhân loại, mọi người và mỗi người chúng ta.
Đức Giêsu đến để chúng ta được sống và sống dồi dào.
Người trao ban sự sống này bằng lời tha thứ, lời tái tạo, lời phục hồi; và
Người trao ban sự sống này ngay trong thân phận con người và ngay trong hoàn
cảnh đầy thách đố của mỗi người chúng ta. “Này anh, anh đã được tha tội rồi”:
đây là lời tha thứ và tái tạo, lời vô hình nhưng đem lại hiệu quả hữu hình
trong đời sống chúng ta. “Hãy đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi về nhà”:
lời đưa dẫn chúng ta sống tình liên đới và mang vác nhau, ngay cả những yếu
đuối bất toàn của nhau.
Hồi tâm.
1/Người
bại liệt và các bạn trong Tin mừng sống liên đới với nhau và đến gần Đức Giêsu:
tôi cảm nghiệm thế nào về tình liên đới trong Hội đồng mục vụ giáo xứ.
2/ Tôi có từng cảm nghiệm tình trạng “bại liệt”
trong tương quan với cha xứ-với thành viên Hội đồng mục vụ giáo xứ? Tôi làm gì
để thay đổi tình cảnh?
3/ Đâu là đặc điểm của người lãnh đạo phục vụ có
khả năng hành động táo bạo như các bạn hữu của người bại liệt?
Toma Vũ Ngọc Tín SJ.
PHẦN QUẢN TRỊ MỤC VỤ
DÙNG UY… LẤY QUYỀN...
“Nhưng Đức Giê-su gọi các ông lại và nói: ‘Anh em
biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì
lấy quyền mà cai quản dân’” (Mt 20,25)
Dẫn vào
Liên hệ với nội hàm của từ ngữ “thủ lãnh” (hay còn gọi
là “thẩm phán”) trong sách Thủ lãnh thuộc Cựu ước, thuật ngữ thủ lãnh được hiểu là người đứng đầu,
người có quyền, người làm lớn… người giúp hướng dẫn các quy tắc theo phán quyết
từ Thiên Chúa.[1] Dưới
sự lãnh đạo của Giô-su-ê và các vị thủ lãnh khác, hành trình tiến vào Đất Hứa
của “dân Chúa chọn” đã diễn ra. Vai trò lãnh đạo của Giô-su-ê trở nên hữu hiệu
cách đặc biệt khi ông chọn một miền đất tại Si-khem, cho mời tất cả những người
từ Ai-cập trở về và những người ở lại đến gặp nhau trong một đại hội. Vì thế,
khái niệm “… thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn
thì lấy quyền mà cai quản dân”[2] sẽ
có thể được thấu hiểu hơn khi các thủ lãnh và toàn dân chọn “Gia-vê”… và trên
niềm tin vững vàng vào một “Gia-vê” Thiên Chúa Toàn Năng, nhân từ và giàu lòng
xót thương.[3]
Thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị
Theo lối đời, thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống
trị..., nhưng trong đạo thì không. Với niềm tin vào một Thiên Chúa là Cha nhân
từ, mọi người là anh chị em của nhau, lãnh đạo là để phục vụ mà “thống trị”
cũng phải là phục vụ. Thật vậy, trách nhiệm và nghĩa vụ của người lãnh đạo là
phục vụ dân. Ngay như trong nhân gian, quan chức thương dân cũng phải hành động
như những công bộc đích thực của dân.[4] Theo
đó, nhà lãnh đạo nên tìm hiểu xem những người thuộc cấp cần gì, người dưới
quyền mình muốn gì để tìm cách đáp ứng cho tốt nhất có thể.[5] Khái
niệm “ý dân là ý trời” của đông phương rất giống với khái niệm “lãnh đạo tôi
tớ” (servant leadership) của tây phương với xuất phát điểm từ chính văn
hóa Ki-tô giáo.[6]
Anh em biết, người được coi là thủ lĩnh
các dân thì lấy quyền mà thống trị dân, những người làm lớn thì dùng uy mà cai
quản dân….[7]
Người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản
Theo lối đời, người làm lớn thì lấy quyền mà cai
quản..., nhưng trong đạo thì không. Những kiểu nói sau đây phản ánh lề thói của
đời: “Con ơi nhớ lấy câu này, cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”; “Một người
làm quan, cả họ được nhờ”; “Quan là cha mẹ của dân…”. Tuy nhiên, trong đức ái
chân thành, với niềm tin vào một Thiên Chúa là Cha nhân từ, mọi người là anh
chị em của nhau, người làm lớn phải là “nhà lãnh đạo tôi tớ” (servant leader),
như gương sống của các thánh, các mục tử trong đạo. Theo đó, các đức giáo hoàng
vẫn luôn ý thức và thường xưng mình là “tôi tớ của các tôi tớ của Thiên Chúa (servant
of the servants of God, servus servorum Dei).[8]
Chính Đức Ki-tô Giêsu đã dạy các tông đồ, các môn đệ
phải là “nhà lãnh đạo tôi tớ”, đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ,
không được lên giọng kẻ cả sắm vai quan chức “hành dân là chính”. Thật vậy, ai
muốn làm lớn…
… giữa anh em, thì phải làm người phục
vụ anh em, và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Cũng như
Con Người đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến
mạng sống làm giá chuộc muôn người.[9]
Minh họa nội dung
Một anh thợ hớt tóc nọ vừa hớt tóc vừa “phán” với một
thân chủ lớn tuổi: “Này bác ơi, tôi cho rằng trên đời này làm gì có Thiên Chúa
nhân từ”. Người khách ngạc nhiên hỏi: “Tại sao anh lại nói thế…”. “Thì bác cứ
ra phố mà xem”, anh thợ nói, “nhiều người phải lang thang kiếm sống, dầm mưa
dãi nắng, đêm đến phải mượn vỉa hè để ngủ. Ấy là chưa kể đến các bệnh viện
nhếch nhác với biết bao bệnh nhân, bệnh tật đau đớn. Nếu có Thiên Chúa nhân từ
giàu lòng thương xót, thì làm sao lại có những chuyện như thế chứ?” Ông khách
làm thinh.
Khi trả tiền xong, bước ra khỏi tiệm hớt tóc, ông
khách thấy một người râu tóc lùm xùm, rõ là lâu ngày rồi không hớt cũng chẳng
cạo gì. Khách bèn quay trở vào tiệm nói lớn: “Này anh phó cạo ơi, trên đời này
làm gì có thợ hớt tóc nhỉ?” Anh thợ sửng sốt: “Bác nói vậy mà nghe được à, thế
tôi là ai đây, ai vừa mới hớt tóc cho bác?” Ông khách mời anh phó cạo ra cửa,
nói: “Thì anh thấy đầy, nếu có thợ hớt tóc thì người kia đã không phải để râu
tóc lùm xùm như vậy”. “Sai bét! Thợ hớt tóc vẫn có, nhưng tay đó không chịu
bước vào tiệm thì dẫu bao nhiêu thợ hớt tóc đi chăng nữa cũng đành phải bó
tay!”.
Ông khách mỉm cười: “Theo tôi, Thiên Chúa nhân từ,
giàu lòng xót thương cũng vậy. Ngài luôn đưa tay ra chờ đợi, nhưng có thể vì
kiêu ngạo, ai đó trong chúng ta không chịu nắm lấy tay Ngài…”.
Câu hỏi giúp thảo luận
1/ Theo
bạn, thế nào là phục vụ đúng nghĩa?
2/ Là quý chức phục vụ trong giáo xứ, khi làm
việc chung với nhau, bạn có hay dùng uy, lấy quyền để thi hành việc bổn phận
không?
3/ Bạn có tin vào một Thiên Chúa là Cha nhân từ,
mọi người là anh chị em của nhau, người đứng đầu, người có quyền, người làm
lớn… là những người phục vụ? Có phải chỉ khi phục vụ người khác thì ai đó mới
thể hiện tinh thần lãnh đạo Chúa dạy?
GTHH
PHẦN HUẤN GIÁO
Phần IV: GIÁO DÂN TRONG CHIẾU KÍCH RAO GIẢNG TIN MỪNG
CHO THẾ GIỚI
TIN MỪNG HÓA CÁC LÃNH VỰC ‘DẤU CHỈ’ HÔM NAY:
TRUYỀN THÔNG – DI DÂN – MÔI TRƯỜNG
“Khi các ngươi thấy mây kéo lên từ phía tây, các
ngươi nói ngay: ‘mưa đến nơi rồi’, và xảy ra đúng như vậy. Khi thấy gió nồm
thổi, các ngươi nói: ‘trời sẽ oi bức’, và xảy ra đúng như vậy. Những kẻ đạo đức
giả kia, cảnh sắc đất trời thì các ngươi biết nhận xét, còn thời đại này, sao
các ngươi lại không biết nhận xét” (Lc 12:54-56)
‘Dấu chỉ thời đại’ là thành ngữ gắn
chặt với cách nói của Hội Thánh Công Giáo thời Công Đồng Vatican II, bắt đầu
vào những năm 1960 dưới thời ĐTC Gio-an XXIII, liên quan tới nội dung các
đoạn Tin Mừng Mt 16:2-3 và Lc 12:54-56. Nó mang ý nghĩa như sau, Hội Thánh (như
một tập thể, cũng như từng cá nhân Ki-tô hữu) cần phải biết lắng nghe, biết học
hỏi từ các biến cố đang dồn dập xảy ra quanh mình trên thế giới, để nhận biết
được điều Chúa đang muốn mình thi hành trong một hoàn cảnh cụ thể. Nói cách
khác, Hội Thánh nơi các phần tử của mình - cách riêng các Ki-tô hữu giáo dân
đang sống giữ đời, phải biết quan tâm sâu sắc tới những chuyển biến của thế
giới hiện đại, hầu có thể trung thành với ơn gọi mình nhận được là thánh hóa
bản thân và Tin Mừng hóa nó. Kể từ Công Đồng Vatican II tới nay, Tòa Thánh, qua
các văn kiện huấn quyền ban hành, đã đặc biệt chỉ ra ba ‘dấu chỉ’ nổi bật đang
in đậm nét trên thế giới hiện đại, những dấu chỉ mà mọi Ki-tô hữu bất luận
không thể không bỏ qua trong sứ mệnh sống đạo và rao giảng Tin Mừng cho thế
giới hôm nay, đó là: truyền thông, di dân và môi trường.
1/ Truyền thông
Ta nên nhớ rằng: Huấn thị về Các Phương tiện Truyền
thông Xã hội Inter Mirifica là tài liệu thứ hai được
Công Đồng ban hành rất sớm, vào ngày 04 tháng 12 năm 1963. Tài liệu này tuy
ngắn ngủi, nhưng nói lên mối quan tâm sâu sắc của Công Đồng, là làm sao cho mọi
Ki-tô hữu hiểu biết được về tầm quan trọng, cũng như ảnh hưởng sâu rộng của
việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hôi đối với việc xây dựng công
ích, cũng như đối với hiệu năng của việc rao giảng Tin Mừng giữa lòng thế giới
hôm nay. Vấn đề truyền thông, qua triều đại các Giáo Hoàng kế tiếp sau đó, đã
được Tòa Thánh dần bổ sung bằng nhiều văn kiện khác nữa, trong đó có Huấn thị
Mục vụ về các Phương tiện Truyền thông Xã hội Communio et Progressio được
ban hành vào tháng giêng năm 1971, một văn kiện dài và đầy đủ hơn. Hôm nay, đã
hơn 50 năm hậu Công Đồng Vatican II, nhân loại đã chứng kiến những bước tiến bộ
vượt bậc về các phương tiện truyền thông toàn cầu (thử nghĩ tới internet với
các ứng dụng đa phương và đa năng của nó) cùng với tất cả ảnh hưởng chúng kéo
theo, ngày càng tỏ ra vô cùng lợi hại cả về diện tích cực lẫn tiêu cực.
Chính vì thế mà ‘dấu chỉ truyền thông’ ngày càng lộ rõ tầm quan trọng và
tính cấp bách đặc thù của nó.
Thiết tưởng lúc này hơn bao giờ hết, ta nên nhắc lại
hướng dẫn rất nền tảng mà Công Đồng dành cho các Ki-tô hữu giáo dân trong lãnh
vực này: “Trách nhiệm của các Mục tử là giáo huấn và hướng dẫn các giáo dân
để họ, với sự nâng đỡ của chính các phương tiện truyền thông này, thăng tiến
chính bản nhân họ cũng như toàn thể gia đình nhân loại, hướng tới phần rỗi cũng
như việc thánh hóa mình. Ngoài ra, các giáo dân cách riêng phải nỗ lực làm sao
cho các giá trị nhân bản và Ki-tô hữu thấm nhuần vào việc sử dụng các phương
tiện này, sao cho chúng có thể đáp ứng cách hữu hiệu những ước mơ to lớn của
nhân loại, phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa.” (Inter Mirifica
03). Huấn thị cũng nhắc nhở các Ki-tô hữu cách cụ thể rằng, khi sử
dụng các phươn tiện truyền thông, họ - trong tư cách cá nhân cũng như tập thể -
cũng có trách nhiệm phải bảo đảm làm sao cho những gì mình nghe hoặc nhìn v.v.
được lành mạnh và xây dựng về luân lý vung như đức tin. Họ có bổn phận xa tránh
những nội dung có thể làm mình bị tổn thương trong đời sống đức tin, hay trái
ngược với tinh thần Tin Mừng (xem Inter Mirifica các số
10-12).
Việc sử dụng các phương tiện truyền thông cũng đặt ra
nhiều vấn đề nghiêm trọng, nhất là đối với giới trẻ. Và điều này đòi hỏi một
quan tâm và hướng dẫn đặc biệt từ phía các bậc phụ huynh và nhà giáo dục…, sao
cho các em, giữa cơn bão truyền thông, biết tiếp thu các thông tin và kiến thức
mình nhận được với nhận thức chọn lọc dựa trên các tiêu chuẩn Tin Mừng và luân
lý lành mạnh và vững chắc (xin xem Inter Mirifica các số
16-17).
2/ Di Dân
Một ‘dấu chỉ thời đại’ quan trọng khác nữa của xã hội
loài người hiện đại là hiện tượng ‘di dân’. Khác với quá khứ, khi mà hiện tượng
di dân không chỉ giới hạn trong các cuộc tản cư, chạy loạn, lưu đầy hay di cư,
hầu hết do các nguyên nhân thiên tai – đói kém, hay giặc giã - loạn lạc gây nên,
và chỉ xảy ra cách lác đác, khoanh vùng hạn hẹp và mang tính nhất thời, ngày
nay hiện tượng này đang bùng nổ rộng khắp, hầu như mọi nơi trên thế giới, và
ảnh hưởng tới mọi lãnh vực của cuộc sống con người, như xã hội, kinh tế, chính
trị, văn hóa… thậm chí cả tôn giáo nữa (xin tham khảo Huấn Thị Erga
Migrantes Caritas Christi của Hội Đồng Giáo Hoàng về Mục vụ Chăm sóc
Di dân và Người lữ hành số 01). Hiện tượng này chắc chắn kéo theo những hệ quả
sâu đậm và lâu dài, cả tích cực lẫn tiêu cực, có khả năng làm huynh đảo cuộc
sống từng người, từng quốc gia dân tộc, và toàn xã hội nữa. Nhìn chung hết và
xa hơn nữa, người ta còn có thể nhận thấy nơi hiện tượng này: xã hội đang dần
hình thành một lối sống mới, lối sống dựa trên sự di chuyển (tương tự như nếp
sống du mục xưa kia), và kéo theo muôn vàn đổi thay sâu sắc, như những tương
quan nhân vị mới, những suy tư mới, những tiến bộ mới, v.v… “Như thế, Hội
Thánh coi hiện tượng di dân hiện nay như một ‘dấu chỉ thời đại’ đầy ý nghĩa, là
một thách đố cần được khám phá và sử dụng trong công tác canh tân nhân loại và
loan báo Tin Mừng bình an” (EMCC số 14).
Đúng thế, hiện tượng di dân đang cống hiến cho Dân
Chúa một khả thể to lớn để canh tân niềm tin của mình hầu thực thi bác ái và
loan báo Tin Mừng (một cuộc ‘xuất hành đức tin và hy vọng’, theo cách
nói của Đức Bê-nê-đi-tô XVI trong sứ điệp ngày quốc tế di dân năm 2013), đồng
thời cũng là một thời cơ đầy thách đố để xây dựng hòa bình thế giới. “Cả
trong Giáo hội và xã hội, các Ki-tô hữu giáo dân, các hiệp hội giáo dân, các
phong trao Hội Thánh, giữa tất cả các khác biệt về đoàn sủng và tác vụ, được
mời gọi cống hiến các chứng tá Ki-tô hữu, và sẵn sàng phục vụ di dân” (EMCC
số 86). Đây còn được coi là vận may hiếm có để thăng tiến cách hữu hiệu vai
trò của Ki-tô hữu giáo dân trong nội bộ Hội Thánh, cũng như ngoài xã hội. “Trong
một Hội Thánh được Thần Khí Chúa thôi thúc, đang phấn đấu để trọn vẹn trở thành
truyền giáo và phục vụ, thì việc tôn trọng các ân điển của mỗi người phải được
đặt lên hàng đầu. Trong vấn đề này, tín hữu giáo dân phải có được quyền tự trị
cao trong các lãnh vực, nhờ đó, họ chu toàn trọng trách Diakonia độc đáo của
họ, như thăm viếng bệnh nhân, giúp đỡ người già yếu, hướng dẫn các nhóm thanh
thiếu niên, sinh động các hộ gia đình, dạy giáo lý, điều hành các khóa huấn
luyện nghề nghiệp, làm việc trong các trường học và cơ quan hành chánh, xa hơn
nữa, làm phụ tá phụng vụ và tư vấn trong các trung tâm cầu nguyện gặp gỡ và suy
tư Lời Chúa” (EMCC số 86 cũng tham khảo thêm các số 87-88).
Hiện tượng rộng lớn này không cho phép họ, nhất là trong tư cách Ki-tô hữu,
đóng kín mình lại, nhưng phải mở ra cho các phục vụ quảng đại.
3/ Môi trường sinh thái
Năm 2015, Đức Phan-xi-cô I đã ban hành Thông
Điệp Laudato Sì – (Chăm Sóc Ngôi Nhà Chung) bàn về đề tài nóng
bỏng là ‘bảo vệ môi trường sinh thái’. Trước hết, Thông Điệp này đã phác họa
cho thấy sự nghiêm trọng của tình trạng ô nhiễm toàn cầu hiện nay, kéo theo
những hậu quả vô cùng thảm khốc trên toàn nhân loại, điển hình là hiện tượng
‘biến đổi khí hậu’. Tiếp theo đó, văn kiện cống hiến cho các tín hữu nói riêng
và mọi người nói chung, một nhãn quan Tin Mừng sâu sắc về tạo dựng, cơ sở của
sự hiệp thông hoàn vũ. Sau khi đã đưa ra một phân tích mang tính khoa học về
nguyên nhân của cuộc khủng hoảng sinh thái hiện nay, Thông Điệp cũng thử đưa ra
giải pháp là thiết lập một khoa sinh thái toàn diện. Điều này nhất thiết đòi
phải có một cuộc đối thoại thẳng thắn về môi tường trong cộng đồng quốc tế, hầu
tiến tới việc hình thành một chiến lược thống nhất trên cấp quốc gia, khu vực
và quốc tế, để đưa ra những quyết định khả thi cả về mặt chính trị lẫn kinh tế.
Trong suốt tiến trình này, con người và sự phát triển chân chính của họ phải
được đặt thành mục tiêu chính yếu và tối hậu, và luôn được nhắm tới. Hơn nữa về
phần mình, trong khi giải quyết các vấn đề sinh thái và môi trường, các Ki-tô
hữu sẽ tìm ra được linh đạo chân chính sâu sắc nhất cho mình, trong tương quan
với Thiên Chúa – Đấng tạo dựng, và đoàn kết với các người anh em trong bình an
và vui tươi.
Thông Điệp được gửi tới mọi người thiện tâm chứ không
phải chỉ riêng cho các Ki-tô hữu, nên nó không có một lời trực tiếp nào
gửi tới giáo dân. Tuy nhiên, giáo dân phải là những người bén nhạy nhất trước
những lời kêu gọi thống thiết này, trong tư cách Ki-tô hữu cũng như công dân
của thế giới. ĐTC kêu gọi họ: “Thách đố nghiêm trọng bảo vệ ngôi nhà chung
của chúng ta cũng bao gồm luôn cả việc mang gia đình nhân loại xích lại gần
nhau, hầu tiến tới một nền phát triển toàn diện và bền vững, bởi vì ta biết
rằng mọi sự đều có thể biến đổi. Đấng Tạo Hóa không bỏ rơi chúng ta! Người
không bao giờ khước từ kế hoạch yêu thương của Người, hay ân hận vì đã tạo dựng
nên chúng ta. Nhân loại vẫn còn khả năng cùng nhau làm việc để kiến thiết ngôi
nhà chung. Lúc này cha muốn nhìn nhận, khích lệ và cám ơn tất cả những ai đã nỗ
lực cách này hay cách khác duy trì việc bảo vệ ngôi nhà chung mà chúng ta đang
cùng nhau chia sẻ. Cách riêng cha đánh giá cao những ai không ngại mỏi mệt tìm
mọi cách để giải quyết các hậu quả tang thương của việc môi trường bị hủy hoại
đang tác động trên đời sống của những người nghèo nhất trên thế giới. Người trẻ
đang đòi phải thay đổi; nhưng chính họ sẽ lấy làm ngạc nhiên: tại sao lại có
những người dám tuyên bố mình đang xây dựng một tương lai tươi sáng mà lại
không hề nghĩ đến cuộc khủng hoảng môi trường, và những đau khổ mà các người bị
loại bỏ đang phải hứng chịu.” (Laudato Sì số 13) Và lời kêu gọi này
được gửi tới tất cả mọi người chúng ta để cùng nhau chung tay, không trừ một
ai: “Tất cả mọi người chúng ta, trong tư cách dụng cụ của Chúa, đều có thể
cộng tác vào việc chăm sóc tạo dựng, mỗi người tùy theo văn hóa, kinh nghiệm,
can dự và khả năng của riêng ông/bà đó.” (Laudato Sì số 14)
Tóm lại, trong thế giới hôm nay, không một Ki-tô hữu
nào có thể coi mình là chân chính, nếu không biết đọc những ‘dấu chỉ’ thời đại
mà Chúa đang vạch ra để chỉ cho mình cách thích hợp nhất tuyên xưng đức tin và
loan truyền Tin Mừng (nhất là khi đã có tiếng nói của Hội Thánh). Điều này đúng
cho từng cá nhân Ki-tô hữu, nhưng cũng có thể đúng đối với mọi đoàn thể và tập
thể trong Hội Thánh, ở mọi cấp mọi nơi (các hội đoàn, đoàn thể, dòng tu, cấp
giáo xứ hay giáo phận…). Và đó cũng có thể được coi như tiêu chuẩn để đánh giá
tính sống động của Tin Mừng nơi các Ki-tô hữu, đặc biệt giáo dân, tại một vùng
hay lãnh thổ xác định.
Câu hỏi gợi ý:
1/ Các
cha mẹ Công Giáo trong vùng bạn sống quan tâm thế nào tới thái độ của các người
trẻ trong việc sử dụng (hay lạm dụng) phương tiện truyền thông như ‘internet’?
2/ Bạn có cho rằng giáo xứ của bạn quan tâm tới
vấn đề di dân không, nhất là trong việc tiếp đón và nâng đỡ họ, về vật chất
cũng như tinh thần?
3/ Tình trạng vệ sinh môi trường của giáo xứ bạn
(nhất là khi có số lượng giáo dân đông tập trung) có thật sự tốt hơn so với các
địa phương khác không? Tại sao?
Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB
PHẦN MỤC VỤ
MẶC ĐẸP CHO ĐỜI
Lời mở
Mặc là một nhu cầu thiết thân của con người trong xã
hội. Quần áo và những trang phục như mũ nón, ví cặp, giày dép… không phải chỉ
che thân và bảo vệ sự sống, nhưng còn nói lên tính cách và phẩm giá cao quý của
người dùng. Nhiều người săn tìm những bộ quần áo của các công ty thời trang nổi
tiếng, trong khi nhiều người khác lại chỉ mặc những chiếc quần jeans rách vá
nhiều chỗ cho có vẻ phóng khoáng tự do. Một số bạn trẻ chỉ thích mặc những quần
áo ngắn ngủn, mỏng manh, để khoe những đường cong, cơ bắp trên thân thể. Vậy
“mặc như thế nào” có lẽ vẫn là câu hỏi được nhiều người đặt ra hằng ngày mỗi
khi phải thay quần áo để đi học, đi làm hay sinh hoạt trong xã hội.
1. Cái mặc trong dòng lịch sử nhân loại
Nếu ta sống một mình trên hoang đảo như Robinson
Crusoe[10] hay
trong phòng kín, có lẽ chẳng cần mặc quần áo, dù rằng quần áo vẫn cần để bảo vệ
cơ thể như giữ ấm, chống ướt, chống lạnh… Nhưng khi tiếp xúc với cộng đồng gồm
nhiều loại người khác nhau, như nam nữ, già trẻ, giàu nghèo, sang hèn, trí thức
hay bình dân… ta cần phải ăn mặc cho phù hợp để nói lên tư cách của mình và tôn
trọng người khác.
Kể từ thời tiền sử, dù còn ăn lông ở lỗ, chỉ biết mặc
những manh áo, tấm khố làm bằng vỏ cây, da thú, con người đã biết trang điểm
cho mình xinh đẹp bằng những vệt màu bằng đất sét[11],
đeo những vỏ ốc, gắn những lông chim sặc sỡ. Người càng có địa vị cao trọng
trong bộ lạc như tù trưởng, thầy pháp, già làng, thì quần áo càng có thêm những
điểm khác biệt.
Vào thời kỳ hình thành các dân tộc, trang phục dần dần
mang nét đặc sắc của nền văn hoá. Mỗi dân tộc có bộ trang phục truyền thống để
mặc trong dịp lễ hội hay các ngày trọng đại của đất nước, như bộ Sari của Ấn
Độ, Kimono của Nhật Bản, Hanbok của Hàn Quốc, Kebaya của Indonesia, Sabai của
Thái Lan, Kilt của Scotland, Gho của Bhutan, Áo dài của Việt Nam.
Ngoài những bộ quần áo đơn giản mặc trong các ngày làm
việc, những bộ trang phục đẹp đẽ chỉ tìm thấy ở chốn cung đình dành cho vua
chúa, quan quyền. Chỉ những người này mới có đủ điều kiện để mặc những bộ quần
áo may bằng những chất liệu đặc biệt như gấm vóc, lụa là, thêu bằng chỉ vàng,
đính thêm ngọc quý.
Từ đầu thế kỷ IV, do ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo,
nhất là Kitô giáo, mọi người trong đế quốc Rôma đều bình đẳng trước mặt Thiên
Chúa nên quần áo sang trọng không còn là độc quyền của giới quý tộc. Ai cũng
phải ăn mặc nghiêm chỉnh để ra mắt Thiên Chúa, nhất là khi tham dự những nghi
lễ phụng tự. Khi các cuộc cách mạng lật đổ chế độ quân chủ độc tài bùng nổ ở
nhiều nước châu Âu, khởi đầu từ cuộc Cách mạng Pháp năm 1789, việc mặc những
trang phục đẹp dần dần phổ biến cho quảng đại quần chúng, nhất là trong giới tư
bản giàu có.
Từ thế kỷ XIX, khi đời sống cộng đồng ở đô thị phát
triển, cách ăn mặc của con người cũng thay đổi. Những bộ quần áo truyền thống
cầu kỳ, phức tạp, nhiều chi tiết được thay bằng những bộ quần áo gọn gàng, đơn giản
để tiện làm việc trong các công ty, nhà máy, xí nghiệp, nhất là khi ngành may
mặc được công nghiệp hoá với những máy móc hiện đại. Quần áo may sẵn với những
tiêu chuẩn rõ ràng, màu sắc hấp dẫn, vừa rẻ vừa đẹp, có thể đến tay mọi người.
Sự phân cấp xã hội qua trang phục giữa những con người sang hèn, giàu nghèo,
già trẻ cũng không còn gay gắt như trước vì ai cũng có thể mặc những bộ quần áo
giống nhau.
2. Người Việt mặc như thế nào?
Dân tộc Việt chúng ta cũng tiến từ giai đoạn mặc đơn
giản thời các vua Hùng với yếm, váy ngắn cho đàn bà; áo giao lĩnh, trực lĩnh,
viên lĩnh và khố vải cho đàn ông[12],
tiến đến giai đoạn có quần áo tươm tất hơn khi bắt đầu nền quân chủ độc lập của
đất nước vào năm 938. Trong hơn 1.000 năm bị người Trung Quốc đô hộ (111 TCN -
937), những người thân chính quyền và giàu có mặc theo người Trung Quốc, trong
khi quần chúng mặc theo người Việt cổ. Điều này nói lên tinh thần ái quốc chống
lại cuộc xâm lăng văn hoá vì trong khi phụ nữ Trung Quốc mặc quần với hai ống
riêng biệt, thì phụ nữ Việt Nam mặc váy. Vì thế mới có câu ca dao:
Cái thúng mà thủng hai đầu
Bên Tây thì có, bên Tàu thì không.
Quần chúng bình dân mặc quần áo đơn sơ cho dễ làm
việc, may bằng vải bông hay đũi[13] là
loại tơ tằm dệt thô, có nhiều đường nối. Nhiều người giàu hoặc quan lại mới có
điều kiện may quần áo bằng lụa là, gấm vóc. Màu sắc thường là màu trắng, đen,
xanh đậm, nâu. Còn những màu rực rỡ khác đều dành cho người quyền quý, giàu
sang. Đặc biệt màu vàng với việc thêu các linh vật như long, ly, quy, phụng chỉ
dành cho vua chúa, quan lại. Người dân nếu vi phạm, có thể bị khép vào tội phạm
thượng, khi quân, phản loạn.
Áo dài là trang phục đổi mới từ áo ngũ thân của người
Việt Nam, mặc cùng với quần dài, dành cho cả nam lẫn nữ, nhưng thường dành cho
nữ nhiều hơn. Chúa Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1744) được coi là người có công
sáng chế chiếc áo dài và định hình chiếc áo dài Việt Nam như ngày nay[14].
Cho đến thế kỷ 17, truyền thống mặc váy vẫn còn tồn tại ở Việt Nam như đã ghi
trong sách Lê Triều Thiên Chính, đời vua Lê Huyền Tông, tháng 3 năm 1665, với
sắc lệnh nhắc nhở: "Áo đàn bà con gái không có thắt lưng, quần không có
hai ống từ xưa đến nay vốn đã có cổ tục như thế…". Năm Minh Mạng thứ 9
(1828), triều đình Huế ra chiếu chỉ cấm đàn bà mặc váy và bắt phải mặc quần hai
ống, nên hồi ấy mới có câu ca dao kêu trách như sau:
Tháng Tám có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng!
Chiếc áo dài ngày nay được hoạ sĩ Nguyễn Cát Tường
(dịch sang tiếng Pháp: Le Mur) giới thiệu đầu tiên trên báo Phong Hoá, số 90,
ngày 23/3/1934. Áo chia hai tà trước sau từ dưới eo khoảng 8cm. Năm 1935, những
chiếc áo dài Le Mur xuất xưởng, tạo sự duyên dáng cho phụ nữ nên được cả xã hội
đón nhận. Từ đó đến nay, áo dài đã được thay đổi nhiều kiểu dáng và chất liệu
nên trở thành trang phục riêng biệt của nữ giới Việt Nam và được nhiều nước
trên thế giới biết đến[15].
3. Mặc theo quan điểm truyền thống Công giáo
Người tín hữu Công giáo có quan điểm khác biệt về cái
mặc và hướng nhiều về lĩnh vực đạo đức, tinh thần hơn là những quần áo, trang
sức bằng vật chất bên ngoài. Khởi đầu, người Công giáo giữ nguyên quan niệm
truyền thống về y phục như Do Thái giáo đã diễn tả trong Thánh Kinh Cựu Ước. Từ
nguyên thuỷ, những người đầu tiên trần truồng không y phục vì họ được ánh sáng
của Thiên Chúa bao phủ (x. St 3). Chỉ sau khi phạm tội, cắt đứt sự hiệp thông
với Thiên Chúa, họ mới cảm thấy xấu hổ trước mặt Thiên Chúa và trước mặt nhau,
nên Thiên Chúa đã mặc cho họ những chiếc áo da (x. St 3,21).
Y phục không phải chỉ bảo vệ thân thể, chống lại sự
thay đổi thời tiết, những nguy hiểm của môi trường như các côn trùng, mà còn
chống lại những cái nhìn thèm khát, muốn lột trần, hạ thấp giá trị con người
thành đồ vật để thoả mãn dục tính. Vì thế, luật cấm nhìn thân thể trần truồng
của cha mẹ (x. St 9.20-27), anh em (x. St 34; 2Sm 3), vợ chồng (x. Lv 18) để bảo
vệ đời sống riêng tư của mỗi người.
Y phục còn phản ánh đời sống xã hội với những công
việc khác nhau (x. 1Sm 25,48; Cn 31,10-31), trở thành quà tặng nói lên tình
bằng hữu (x. 1Sm 18,3-4), trở thành ân phúc của Chúa để chia sẻ cho những ai
nghèo túng, không để họ phải trần truồng, rách rưới (x. Ez 18,7; Is 58,7).
Đời sống, lời rao giảng, nhất là mầu nhiệm chết
đi-sống lại của Đức Giêsu Kitô đem lại ý nghĩa mới mẻ cho cái mặc của con người
và của Kitô hữu (x.Mt 6,28-33). Thiên Chúa yêu thương toàn thể con người và vũ
trụ nên đã sai Ngôi Lời, Con của Ngài, xuống thế làm người. Dù là Thiên Chúa vô
cùng giàu có và cao sang, nhưng Người tự nguyện trở thành hài nhi, bọc tã nằm
trong máng cỏ (Lc 2,7.12). Cuối đời, Đức Giêsu bị lột hết y phục (x. Mt 27,35; Ga
19,23), nằm chết nhục nhã trên thập giá như muốn đưa tất cả vào tình trạng
nguyên thuỷ, khi con người được Thiên Chúa bao bọc bằng tình yêu và ánh sáng
của Ngài. Đức Giêsu đã báo trước tình trạng này vài tuần trước đó, khi Người
biến hình trên núi trong y phục huy hoàng trắng tinh như ánh sáng (x. Mt 17,2),
cũng như khi Người hiện ra với Phaolô trên đường đi Damas (x. Cv 22,6-11).
Người Kitô hữu không quan tâm đến y phục vật chất và
sống theo tinh thần nghèo khó của Đức Giêsu. Họ muốn lột bỏ con người cũ và mặc
lấy người mới (x. Cl 3,10; Ep 4,24) để thật sự “sống công chính và thánh thiện,
nhờ đức tin và phép rửa”. Họ phải ‘mặc lấy Đức Kitô’ (Gl 3,25) là con người mới
(x. CĐ. Vat.II, GS, số 22) để từ nay trở thành chi thể trong thân thể mầu nhiệm
của Đức Kitô, thành con cái của Thiên Chúa. Mặc lấy Đức Kitô chính là mang một
thứ y phục tinh thần mà Thánh Phaolô đã diễn tả rất rõ trong đoạn thư gửi tín
hữu Côlôsê 3, 7-15: “Hãy cởi bỏ con người cũ là tất cả những gì tiêu cực như
giận dữ, nóng nảy, độc ác, thoá mạ, ăn nói thô tục và mặc lấy con người mới là
lòng thương cảm, nhân hậu, khiên nhu, hiền hoà, nhẫn nại, biết chịu dựng lẫn
nhau và tha thứ cho nhau, nhất là mặc lấy lòng bác ái là mối dây liên kết tuyệt
hảo”.
Kể từ Công đồng Vaticanô II (1962-1965), người Công
giáo vượt qua quan niệm Nhị Nguyên để nhận ra "con người là một với thể
xác và tinh thần, và phải coi thể xác là tốt lành, đáng tôn trọng vì được Thiên
Chúa tạo thành và sẽ được sống lại trong ngày sau hết" (x. CĐ. Vat.II, GS,
số 14). Hơn nữa, Thiên Chúa là nguồn chân, thiện, mỹ. Tất cả mọi sự Ngài
dựng nên đều rất tốt đẹp (St 1,31; x. Thư ĐGH Gioan Phaolô II gửi văn
nghệ sĩ, 4/4/1999) và cái đẹp là một trong ba thuộc tính cơ bản của hữu
thể: đúng-tốt-đẹp, nên người tín hữu phải tôn trọng và biểu lộ cái đẹp trong
thân xác cũng như qua quần áo, trang phục của mình. ĐGH Gioan Phaolô II nhắc
bảo rằng: "đẹp là hình thức bên ngoài của cái tốt, cũng như cái tốt là
điều kiện siêu hình của cái đẹp và cả hai cái tốt và đẹp đều phải nằm trong cái
thật của hữu thể" (Thư gửi văn nghệ sĩ, số 3). Vì thế, bước sang thiên
niên kỷ thứ III, người Công giáo có quan điểm cởi mở hơn về y phục và tất cả
những gì liên quan tới thân thể con người vì muốn biểu lộ cái đẹp của Thiên
Chúa qua cách sống, ăn mặc, trang điểm của mình.
4. Chúng ta sẽ mặc gì và mặc như thế nào?
Mỗi ngày trước khi đi làm, đi học hay gặp một người
nào đó, ta nên đặt ra cho mình một vài tiêu chuẩn trước khi chọn lựa quần áo:
- Trang phục phải phù hợp với hoàn cảnh và
cộng đồng xã hội. Ta không thể mặc bộ quần áo với màu sắc rực rỡ, tươi sáng
để dự tang lễ của bất cứ ai, vì như thế là xúc phạm đến người đã khuất và cộng
đồng trước nỗi mất mát và cái chết. Đến những nơi thờ tự ta cũng cần có những
trang phục hết sức đúng đắn để tỏ lòng tôn kính thần linh và tôn trọng niềm tin
của người khác.
- Trang phục phải phù hợp với đức hạnh và tư
cách. Người xưa nhắc nhở rằng: "Y phục xứng kỳ đức", nghĩa là ăn
mặc phải tương xứng với đức hạnh và địa vị trong xã hội. Một người tử tế, có
văn hoá, sẽ biểu lộ đức hạnh của mình qua trang phục họ mang: từ bộ quần áo,
đến giày dép, mũ nón, ví cặp…
- Trang phục phải đẹp và nâng cao phẩm giá con
người. Tinh thần khiêm tốn, khó nghèo không ngăn cản ta tôn vinh cái đẹp và
nhân phẩm. Vẻ đẹp thể hiện qua màu sắc, kiểu dáng của trang phục hài hoà với
người mặc và cộng đồng. Chính việc chọn đúng màu sắc đã nói lên phần nào tài
năng, tính cách và đức hạnh của người mặc.
- Tuyệt đối không bao giờ dùng trang phục khoe
thân. Nhiều bạn trẻ hay phụ nữ mặc những bộ quần áo quá mỏng để khoe thân.
Họ đã tự đánh giá thấp bản thân, biến mình thành một tượng đài hay vật dụng cho
người khác ngắm nhìn theo những dục vọng của người xem, hơn là biểu lộ những
nét đẹp trong sáng cao thượng của một con người toàn diện.
Lời kết
Vì thế, chúng ta "hãy mặc lấy con người mới, con
người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hoá" (Cl 3,10). Chúng ta
hãy “mặc lấy Đức Kitô” (Gl 3,25) vì Người là Ngôi Lời Thiên Chúa làm người, đã
đưa tính vĩnh hằng, vô biên, tuyệt đối vào trong con người vô thường, tạm bợ,
hữu hạn, nên mỗi hành động dù nhỏ bé nhất của ta như ăn, mặc hằng ngày đều có
giá trị vô cùng, đều tạo nên công đức vì ta đóng góp vào cái đẹp vĩnh hằng của
Thiên Chúa.
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn
Câu hỏi
1. Bạn thường chọn lựa quần áo như thế nào: chú ý đến
màu sắc, kiểu dáng hay không quan tâm đến chúng?
2. Bạn nghĩ phụ nữ Việt Nam có nên mặc chiếc áo dài
truyền thống trong những dịp lễ đặc biệt không? Tại sao?
3. Bạn biết gì về cách phối màu cho quần áo bạn mặc
hay chia sẻ cho bạn bè để họ ăn mặc đẹp hơn?
4. Bạn đã mặc Đức Giêsu Kitô như thế nào?
[1] Sau khi Mô-sê qua đời, Thiên Chúa đã trao trách
nhiệm cho Giô-su-ê dẫn dắt dân Chúa. Chính Giô-su-ê lãnh đạo dân tiến vào miền
đất Thiên Chúa đã hứa ban và trở thành vị thủ lãnh của dân, khởi đầu một giai
đoạn mới: Thời kỳ Thủ Lãnh. Vào thời kỳ này, dân Chúa phải đấu tranh để sinh
tồn, vượt qua nhiều thử thách trong đức tin để
trung thành với Thiên Chúa.
[2] Mt 20,25.
[3] Đó là Đại hội Si-khem. Trong đại hội, chính
Giô-su-ê đề nghị mọi người chọn Gia-vê Thiên Chúa… và trên niềm tin vào Gia-vê
Thiên Chúa, một liên bang các chi tộc đã khai sinh.
[4] Công (公) là chung, bộc (僕)
là đầy tớ; cụm từ “công bộc của dân” có thể được hiểu là người đầy tớ chung của
nhân dân. Vì thế, công nhân viên chức một đất nước vẫn thường được cho là công
bộc của dân (servants of the people).
[5] “The leader shall consider as good, not what
pleases himself but what pleases his subjects or his followers”
(Chanakya, Arthashas-tra).
[6] “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (x.
Robert Greenleaf, Essentials of Servant Leadership (1977).
[7] Mt 20,25.
[8] X. Gabriel Adeleye, Kofi Acquah-Dadzie, Thomas
J. Sienkewicz, World Dictionary of Foreign Expressions: a Resource for
Readers (1999), 361. “Servant of the servants of God is one of
the titles of
the pope and
is used at the beginning of papal bulls”.
[9] Mt 20,26-28; x. Mc 10,43-45.
[10] Robinson Crusoe là tiểu thuyết của nhà văn Anh
Daniel Defoe, tên tiếng Anh đầy đủ: The life and strange surprising
adventures of Robinson Crusoe of York, Mariner, xuất bản năm 1719.
[11] X. A. Roberts, Atlas Giải phẫu Cơ thể
Người, NXB Y Học, tr 015.
[12] X. Wikipedia, bài Trang phục Việt Nam,
Internet.
[13] Thành phố Hồ Chí Minh còn giữ một địa danh là
Chợ Đũi là khu vực ở góc đường Võ Văn Tần, q.3 và giáo xứ Công giáo Chợ Đũi ở
đường Tôn Thất Tùng , q.1, Tp.HCM. Đây là khu vực buôn bán đũi cách đây khoảng
100 năm.
[14] X. Wikipedia, bài Áo Dài, Internet.
[15] X. Wikipedia, bài Áo Dài, Internet.