GÍAO DỤC CON CÁI
(viết theo Trách
nhiệm làm cha mẹ của đài Veritas)
Lm. Phaolô Phạm Công Phương
Bất cứ thời nào và ở đâu, gia đình nào cũng có
những nỗi khổ tâm: vợ chồng bất hoà, làm ăn thất bát... và đặc biệt hôm nay,
chúng tôi muốn bàn về con cái, vì nhiều khi nó là vấn đề nhức nhối của nhiều
gia đình, của những người làm cha làm mẹ. Hơn bao giờ hết, những lỗ hổng đạo
đức đang chen lấn trong cơn sốt làm giàu và tâm thức hưởng thụ của nền kinh tế
thị trường hôm nay. Tựu trung là con cái hư hỏng, học hành không đến nơi đến
chốn, chạy theo bạn bè ăn chơi sa đoạ, mất cả tác phong của một con người.
Công An quận Phú Nhuận sau một thời gian theo dõi,
đã quyết định phá án. Gần một trăm thanh niên đã bị bắt tại địa điểm trong khi
trao đổi và sử dụng héroin. Trong các tang vật bị tịch thu được trưng bày trước
ống kính báo chí, ngoài héroin ra, còn có nhiều thứ khác như điện thoại di
động, vàng và đôla. Nguyễn Văn Anh là một trong 26 thành viên của băng cướp
"Phương mắt ma" bị Công An Tân Bình tóm gọn. Cha của anh đã nói về
con mình như sau: "Nó đang học năm thứ nhất đại học ở Hà Nội, khoa du
lịch. Thằng này nhát lắm, cướp giật gì, bạn bè lôi kéo đấy thôi. Sợ nó đua đòi
bạn bè, tôi chỉ mua cho nó chiếc "Su-Xì-bo" (Suzuki Sport) thôi ! Sau
nó nói bạn nó cũng có, nên tôi đổi cho nó chiếc Rebel này. Đó, xe này cồng
kềnh, đi ăn cướp làm sao lạng lách được, phân khối lớn thì đâu có bạn để đua !
(Tuổi Trẻ 26/11/1996). Khi biết tin con mình bị bắt, mẹ của một thành viên
trong băng cướp "Phương mắt ma", một cán bộ, đã lên tận quận để kêu
oan: "Con tôi vô tội !" Một bà mẹ khác thì phân trần: "Tôi đâu
có thời gian để dạy dỗ con cái. Tự mỗi đứa phải có ý thức chứ !" Cha của Nguyễn
Hoàng Nguyên đã nói với phóng viên: "Tôi già rồi, làm sao kéo hắn nổi.
Khuyên hắn không được, tôi đã cắt hộ khẩu của hắn ra khỏi gia đình từ bốn năm
nay rồi. Coi như tôi không còn trách nhiệm gì với hắn nữa." Một người cha
khác: "Nếu nó tái phạm lần nữa, có bị xử bắn cũng mặc !" Những hiện
trạng và phản ứng trên đây cho thấy phòng tuyến của gia đình đã bị bỏ ngỏ. Là
những bậc làm cha làm mẹ, có bao giờ chúng ta ngồi lại với nhau để tự vấn lương
tâm xem mình đã ý thức trách nhiệm giáo dục chưa, và mình đã ý thức tự đào
luyện để thực thi chức năng giáo dục của gia đình mình chưa ?
I -Ý THỨC TRÁCH NHIỆM GIÁO DỤC CON CÁI
1 ) Hoàn cảnh thực tế:
Cha mẹ quan tâm đến con cái thì không thể không
màng tới những yếu tố ngoại tại là hoàn cảnh đầy phức tạp của xã hội hôm nay.
Công nghệ thông tin đang đạt tới vận tốc chóng mặt, biến thế giới này thành một
ngôi làng nhỏ, chuyện xảy ra ở một góc phố hay trong một gia đình cũng có ít
nhiều liên hệ đến cả thế giới chúng ta đang sống. Các phương tiện truyền thông
giải trí ngày càng phong phú và tinh vi cùng với việc toàn cầu hoá kinh tế và
chính trị đang hình thành những nếp suy nghĩ và lối sống mới ảnh hưởng trực
tiếp đến giới trẻ là con cái chúng ta, và không chỉ có con cái, mà cả chúng ta,
những bậc làm cha mẹ, cũng bị cuốn hút theo tốc độ của các trào lưu hiện đại.
Dĩ nhiên, chúng ta không phủ nhận những giá trị tích cực mà sự tiến bộ của khoa
học kỹ thuật mang lại cho con người, kể cả lãnh vực giáo dục. Ơû đây, chúng ta
muốn các bậc cha mẹ lưu ý đến mặt trái của các phương tiện kỹ thuật, bởi vì mục
tiêu của giáo dục thường đối nghịch với mục tiêu tiêu thụ của xã hội. Giáo dục
nhằm phát triển con người, còn kinh tế tiếp thị kích động con người thỏa mãn
các ước vọng của mình. Kỹ nghệ quảng cáo đã đưa đẩy con người tiêu thụ, cạnh
tranh và làm cho xã hội phát triển tiến bộ hơn. Kỹ thuật bao bì dù không phải
là cái chính yếu nhưng lại cần thiết và được mọi người ưa chuộng: Giấy rách giữ
lấy lề. Bên cạnh đó, ngành kinh doanh các sản phẩm không lành mạnh cũng đang
lấn chiếm thị trường, tạo sức thu hút mạnh mẽ đối với mọi người, mọi giới, mọi
nơi và mọi lúc. Sách vở, báo chí, phim ảnh dâm ô không còn là thứ hàng cấm kî,
mà đã ở trong tầm tay và ánh mắt của mọi người. Kinh tế thị trường càng mở ngỏ,
chúng lại càng có cơ may xâm nhập ồ ạt đến tận hang cùng ngõ hẻm của xã hội.
Ngoài ra còn có những ảnh hưởng tiêu cực của các thần tượng với những lối sống
buông thả: Gió chiều nào, che chiều ấy, tới đâu hay tới đó, hơi sức đâu mà bận
tâm ! Như thế đó, bậc thang các giá trị hoàn toàn bị đảo lộn: Tin Mừng không đủ
sức dậy men trong những điều kiện như thế, giáo huấn của Hội Thánh chỉ là tiếng
kêu lạc lõng, gia huấn của tổ tiên bị lỗi thời. Tất cả đều nhường chỗ hay được
xếp sau lối suy nghĩ và nếp sống mới của kỹ nghệ quảng cáo bạo lực và kinh
doanh thân xác con người.
2 ) Phản ứng của những người có trách nhiệm.
Đã nhiều năm rồi, những người có chút tâm huyết dân
tộc, có chút thao thức vận mệnh đất nước, đều gióng lên lên tiếng chuông cảnh
tỉnh về sự tụt hậu của đời sống đạo đức hiện nay. Sự tụt hậu rõ nét nhất chính
là sự sơ cứng trái tim thành những con người nghèo nhân bản như thiếu lòng cảm
thông, thiếu trách nhiệm và kính phục, thiếu ngay thật làm băng hoại danh dự,ï
công bằng, tình liên đới, lòng biết ơn ... Một số các bậc cha mẹ bỏ cuộc và
khoán trắng cho nhà trường, nhà thờ, một số khác thực thi quyền bính với sự sợ
hãi, hoặc đương đầu với thực tế bằng thái độ khép kín độc đoán và bạo động.
Chúng ta không thể thả nổi cho con cái làm mồi cho quan điểm và lối sống không
lành mạnh. Phải bắt đầu lại ! Chẳng có sự bắt đầu nào là trễ cả vì chẳng có vị
thánh nào mà không có quá khứ, và chẳng có tội nhân nào mà không có tương lai.
II - MỘT VÀI LÃNH VỰC GIÁO DỤC CON CÁI
1 ) Đào luyện con cái thành những người biết vâng
phục:
Đào luyện con cái thành những con người biết vâng
phục, nghĩa là biết sống phục vụ, là một tiến trình lâu dài mang nhiều khó
khăn, đòi hỏi cha mẹ phải tuỳ cơ ứng biến, nghiêm khắc hay uyển chuyển; và quan
trọng là phải quảng đại trong nhẫn nhục và kiên trì với thời gian. Vâng phục là
biết nghe và lắng nghe: Không thể có giáo dục vâng phục nếu không có giáo dục
trách nhiệm. Người có trách nhiệm là người có khả năng đáp trả một tiếng gọi,
khởi đầu là tiếng lương tâm, rồi tiếng của người khác, và cuối cùng là tiếng
gọi của Thiên Chúa. Để đáp trả tiếng gọi, cần phải nghe và biết lắng nghe. Hiểu
như thế, thì vâng phục không chỉ là chuyện của trẻ con, của người thuộc quyền,
mà là chuyện của mọi người. Tiến trình vâng phục không bao giờ chấm kết, bao
lâu còn sống là còn vâng phục. Chúng ta hãy nhìn vào gương của Đức Giêsu, Ngài
đã vâng phục và vâng phục cho đến chết: "Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã
phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục, và khi chính bản
thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả
những ai vâng phục Người" (Dt 5,8-9).
"Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không
nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, ... Người lại
còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập
tự" (Pl 2,6-8). Vâng phục là biết sống phục vụ: Có nhiều động lực thúc đẩy
con người vâng phục vụ sợ hãi như sợ người khác buồn, sợ mang tiếng, sợ trừng
phạt, sợ phiền phức ... nghĩa là chỉ muốn tránh phiền toái rắc rối trong cuộc
sống. Một thái độ như vậy có thể dẫn đến mù quáng và nô lệ, không còn tự do
trong suy nghĩ và hành động nữa. Đức Giêsu đã vâng phục và vâng phục cho đến
chết, điều đó cũng có nghĩa là Ngài đã phục vụ và phục vụ cho đến chết. Như
thế, dạy cho con cái biết vâng phục cũng chính là dạy cho chúng biết sống phục
vụ, bởi vì không có tinh thần phục vụ, vâng phục để trở thành nô lệ. Vâng phục
cũng luôn đi đôi với ý thức trách nhiệm. Tuân thủ luật đi đường không phải vì
sợ phạt, mà vì nghĩ đến công ích. Tuân thủ lời dạy của cha mẹ không phải vì sợ
phạt, mà vì lợi ích của mọi người trong gia đình. Nhiều bậc cha mẹ rất quan tâm
đến tương lai sự nghiệp của con cái, lo từng ly từng tí, mà quên mất một việc
thiết yếu là giáo dục con cái trở thành những con người phục vụ. Không có tinh
thần phục vụ thì dù đỗ đạt và thành công trong cuộc sống, vẫn chưa phải là
người trưởng thành thật sự. Do đó, khi dạy cho con cái biết vâng phục là cha mẹ
dạy cho chúng biết phục vụ và phục vụ một cách vô vị lợi. Vâng phục trong sự
đối thoại: Một trong những hình thức làm cho việc vâng phục có giá trị là để
cho con cái tham gia ý kiến và thấu hiểu những vấn đề mà cha mẹ đang phải đối
đầu hoặc những quyết định phải cân nhắc. Cha mẹ hãy để cho con cái đóng góp ý
kiến, nhất là trong những vấn đề liên quan đến cuộc sống của con cái. Dù rằng ý
kiến của chúng chưa hẳn là khôn ngoan hay đúng đắn, nhưng sự việc để cho chúng
tham gia vào việc giải quyết các vấn đề của gia đình, sẽ tập cho chúng thấy
được trách nhiệm của mình. Điều này chẳng những kích thích khả năng suy nghĩ của
con cái, mà còn gia tăng tăng tinh thần trách nhiệm và óc sáng kiến của chúng.
Việc giáo dục vâng phục đòi hỏi một bầu khí tin
tưởng và tín nhiệm giữa con cái đối với chamẹ và còn giữa cha mẹ đối với con
cái. Để co ùthể tin tưởng nơi con cái, cha mẹ cần có sư ïcảm thông cao độ trước
những lỗi lầm và sai phạm của chúng, dĩ nhiên không bao giờ hiểu làsự đồng tình
với cái xấu. Chỉ có sự cảm thông như thế mới có thể tạo nên sự đối thoại giữa
cha mẹ với con cái, và gia tăng sự tín nhiệm từ phía con cái đối với cha mẹ.
Bạo loạn, nổi nóng chỉ gây thêm trầm trọng và đổ vỡ. Khủng hoảng và thử thách
là chuyện cơm bữa của bất cứ gia đình nào và của bất cứ tiến trình trưởng thành
nào. Không chỉ gia đình khủng hoảng mà bất cứ thành viên nào trong gia đình
cũng đều trải qua những giai đoạn khủng hoảng: giữa tuổi thơ và thiếu niên,
giữa tuổi dậy thì và thanh niên, rồi tuổi già ... Mỗi người đều có thể học hỏi
từ kinh nghiệm của người khác,và có lẽ không có trường học nào khiến con người
có thể học hỏi kinh nghiệm cách hữu hiệu cho bằng trong mỗi gia đình. Cha mẹ
chỉ bảo, con cái vâng nghe; cả hai cùng nắm tay tiến bước: cha mẹ đi trước, con
cái theo sau, và đó là cách thế giúp nhau tốt nhất. Nhờ đối thoại, cha mẹ sẽ
biết con cái nghĩ gì, đồng thời chính con cái sẽ hiểu rõ hơn thực trạng của
chính mình. Mỗi đứa con đều biết về quá khứ và hiện tại của nó, khó khăn và mơ
ước của nó, nó sẽ biết mình phải làm gì cho tương lai và phải chuẩn bị những gì
để vào đời.
2 ) Thương cho roi cho vọt
Sự thưởng phạt có cần thiết cho việc thực thi quyền
bính của cha mẹ không? Cần thưởng phạt như thế nào mà vẫn duy trì được bầu khí
tin tưởng giữa cha mẹ và con cái? Sách Cổ học tinh hoa có kể chuyện Hàn Bá Du
ăn ở với mẹ rất hiếu đễ. Những khi có lỗi lầm, Bá Du thường bị mẹ đánh đòn. Một
hôm, Bá Du phải đòn khóc mãi. Mẹ thấy vậy hỏi:
-Mọi khi mẹ đánh, con biết lỗi, con cam chịu ngay,
lần này, sao con khóc dai thế ?
-Mọi khi mẹ đánh, con thấy đau, con biết mẹ còn
mạnh khoẻ; lần này, con không thấy đau, con biết sức mẹ đã già yếu, nên con
nghĩ thương mẹ mà khóc.
Tác giả có lời bình như sau:"Con ăn ở với cha
mẹ, tuy khó nhọc khổ sở cũng không dám oán. Như Bá Du trong câu chuyện trên:
chẳng những không oán mẹ, lại còn thương mẹ già yếu, tình con yêu mẹ như thế
thật làthắm thiết". Cha mẹ thưởng phạt mà con cái vẫn cảm nhận được tình
thương của cha mẹ, không phải chỉ là một nghệ thuật, mà còn cả một tấm lòng yêu
thương được thể hiện qua mọi cử chỉ hành động của cha mẹ, dù thưởng hay là
phạt. Quyền hạn của cha mẹ: Làm cha mẹ là được trao cho hai thứ quyền: một là
quyền kiểm soát và giáo huấn con cái; hai là quyền áp đặt sự thưởng phạt.
Thưởng phạt vừa có tính tích cực, vừa có khía cạnh tiêu cực, nhưng điều quan
trọng là cha mẹ phải có đường lối rõ ràng. Nếu không rõ ràng, cha mẹ có nguy cơ
tuỳ tiện và thiếu nhất quán; và như vậy, đánh mất sự tín nhiệm của con
cái.Thương cho roi cho vọt là nguyên tắc nền tảng và cần thiết trong việc thực
thi quyền bính của cha mẹ trong gia đình của người Việt Nam, như quan điểm của
vua Gia Long, lúc còn là Nguyễn Ánh, đã bày tỏ với giám mục Bá Đa Lộc:
"Tôi quyết duy trì việc thờ cúng tổ tiên, vànhư tôi đã trình bày với đức
cha: không có gì kỳ quặc trong đó hết, nó là nền tảng giáo dục của chúng tôi.
Nó dạy con cái từ lúc còn thơ lòng hiếu kính và ban cho cha mẹ cái quyền cần
thiết để ngăn chặn những rối loạn trong gia đình." (Guy Marie Oury, Giáo
Hội Việt Nam thời các thánh tử đạo, trang 114). Quyền trừng phạt: Để thực thi
quyền bính trong gia đình, cha mẹ cần được con cái đáp trả bằng sự vâng phục,
va øđể chúng vâng phục, cha mẹ có thể áp đặt số biện pháp trừng phạt. Tuy
nhiên, nếu chỉ nhìn nguyên tắc thưởng phạt dưới khía cạnh tiêu cực, thì không
thiếu những bậc cha mẹ đã lạm dụng và bạo động để uốn nắn con cái. Trừng phạt
mà không được thể hiện bằng tình thương có thể tạo ra những hậu quả tiêu cực
nơi con cái. Tất cả những cử chỉ xâm phạm đến thân xác con cái, như đánh đập,
mỉa mai, mà thiếu tình thương là một xúc phạm,và bất cứ xúc phạm nào cũng là
một vết thương khó chữa lành trong tâm hồn con cái. Nếu con cái cố gắng để không
tái phạm chỉ vì sợ trừng phạt, thì quan hệ giữa cha mẹ với con cái chỉ còn xây
dựng trên sợ hãi hay tính tóan màthôi. Cha mẹ sẽ thiếu trách nhiệm nặng nề, nếu
nuông chiều con cái đến độ nhắm mắt làm ngơ hoặc tán thành những sai trái của
chúng. Một thái độ như thế cũng có tính huỷ hoại không kém gì hành vi bạo động
của cha mẹ đối với con cái. Như thế, cách sống của cha mẹ, tự nó, đã là một sửa
trị và răn dạy hữu hiệu nhất. Gương sáng của cha mẹ có giá trị phán quyết vàsoi
sáng cho hành động của con cái. Quyền tưởng thưởng: Nếu những cử chỉ đánh phạt,
đe doạ, cấm chế không luôn luôn là tích cực và hữu hiệu, thì tưởng thưởng là
điều tích cực cần được cha mẹ quan tâm. Quà tặng có thể gắn liền và biểu hiện
cho sự tưởng thưởng, nhưng quà tặng không thiết yếu là sự tưởng thưởng. Món quà
cao quý nhất mà cha mẹ luôn dành cho con cái là tình thương. Con cái sẽ cảm
thấy được khuyến khích và nâng đỡ hơn, không phải vì món quà vật chất, song là
niềm vui và tình yêu được thể hiện trong ánh mắt nụ cười, lời nói và cách cư xử
của cha mẹ. Có những món quà hoàn toàn trơ trụi, không biểu hiện được tình yêu
của cha mẹ, chỉ làm con cái ra hư hỏng. Khi chúng không còn biết thế nào là
thiếu thốn, thì sự tưởng thưởng bằng vật chất không còn ýnghĩa và giá trị đối
với chúng nữa. Bất cứ sự giáo dục nào cũng đòi hỏi tinh thần kỷ luật, sự từ bỏ
và cố gắng sửa mình. Sự tưởng thưởng đúng nghĩa mà cha mẹ dành cho con cái
chính là sự hài lòng mãn nguyện trước thành quả của con cái; và ngược lại, con
cái sẽ vui sướng khi thấy cha mẹ hài lòng vì những cố gắng của chúng.
3 ) Giáo dục theo những chuẩn mực đạo đức.
Khoa học tiến triển, công nghệ thông tin bùng nổ,
lợi nhuận kinh tế được ưu tiên hàng đầu, ít nhiều tạo ra những lỗ hổng đạo đức;
xuống cấp về luân lý, nhân cách, khủng hoảng về gia đình, là điều khó tránh
trong bối cảnh xã hội hôm nay. Sự đổ vơí trong gia đình có thể là nguyên nhân
chính dẫn đến nhiều tệ nạn xã hội, vì nó tạo nên một lỗ hổng tâm lý mà không gì
có thể bù đắp. Cuộc sống dư dật cũng có thể là yếu tố dẫn đến sự trống rỗng tâm
linh nơi đứa trẻ, và chúng tìm cách bù đắp nhiều khi bằng những phương thế mà
chẳng cha mẹ nào mong muốn hay chờ đợi. Điều cần thiết mà cha mẹ phải làm là
chỉ bảo cho con cái những giá trị lành mạnh, tạo cho chúng một ý thức sắc bén
về luân lý và những chuẩn mực đạo đức vướng chắc để chúng sống cho ra người và
nên người, thành nhân hơn là thành công.
Kính trọng người khác: Kính trọng người khác là
nhân đức nền tảng của nhân cách, mà Quốc văn giáo khoa thư, một cuốn sách dạy
vỡ lòng, đã kể một câu chuyện về tôi tớ trong nhà như sau: Tôi tớ ở với mình,
giúp công việc cho mình cũng như người nhà mình, mình phải lấy bụng khoan hoà,
nhân ái, công bằng mà xử với tôi tớ. Một hôm, anh Hậu đang quát mắng đầy tớ,
người cha thấy vậy mới bảo rằng : "Đầy tớ ở với ta, giúp được bao việc:
nào là quét nhà, gánh nước, bổ củi, nấu cơm, làm đủ mọi việc thật vất vả khó
nhọc; không có đầy tớ, liệu con có làm được không? Vậy, đối với đầy tớ, ta phải
ăn ở cho có lượng, đừng hơi một tí là đã quát tháo lên như thế". Đối với
đạo Công Giáo, nền tảng của sự kính trọng yêu thương người khác chính là phẩm
giá của mỗi con người, vì họ được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa. Ngày
phán xét cuối cùng chỉ có một tiêu chuẩn là thương người, giúp người. Chúa
Giêsu khẳng định chúng ta sẽ bị xét xử dựa theo cách thế cư xử của ta đối với
người khác, bởi người khác dù có hèn kém đến đâu cũng là hiện thân của chính
Chúa. Gia đình là trường học đầu tiên và cha mẹ là những thày dạy đầu tiên cho
con cái về những đức tính nhân bản như là nền tảng của cuộc sống làm người. Bài
học về sự kính trọng tha nhân, đặc biệt là người trên, người già cả, người khổ
đau ... phải được cha mẹ lên lớp đầu tiên, không phải bằng sách vở bài bản,
nhưng là cuộc sống cụ thể giúp cho đứa trẻ cảm nhận sâu sắc. Chính trong gia
đình, con cái lớn lên và học được cách cư xử của người lớn, đặc biệt qua cách
thế cha mẹ cư xử với chúng và với người khác. Một vài ví dụ cụ thể: Cha mẹ có
thể khinh thường con cái bằng mắng nhiếc, hành hạ đủ điều, nhưng nuông chiều
cũng là cách khinh thường con cái vì dễ làm chúng ra hư hỏng. Những đứa con
xinh đẹp, giỏi giang thì được nuông chiều nhiều hơn, còn đứa xấu xí đần độn thì
bị khinh rẻ. Qua cách đối xử như vậy, cha mẹ đã vô tình gieo vào đầu óc con cái
cách đánh giá con người dựa trên thành tựu hơn là bản thân con người, căn cứ
vào số lượng công việc hơn là phẩm cách chu toàn của con người. Nhu thế, những
kẻ tàn tật, bất hạnh, nghèo khổ sẽ là hạng người vô giá trị. Hoặc qua cách cha
mẹ cư xử với nhau như yêu thương, kính trọng, thông cảm, nhẫn nhục và tha thứ,
con cái sẽ hiểu được thế nào là tình yêu vợ chồng mà một ngày kia chúng cũng
phải có đối với người bạn đời của chúng. Có một cụ già chung sống với người con
trai. Cụ cảm thấy rất hạnh phúc trong gia đình này. Ngày tháng trôi qua, sức
khoẻ cụ giảm sút, tay run rẩy thường hay làm rơi chén cơm, bát nước. Ban đầu
không có chuyện gì xảy ra, nhưng lâu dần, người con trai khó chịu, quát tháo,
và bắt cụ ăn tại phòng riêng với cái chén gỗ. Thế nhưng, một ngày kia, người
con trai thấy đứa con của mình đang đục đẽo một khúc gỗ. Anh vặn hỏi lý do, đứa
bé hãnh diện đáp: "Con đang tự tay làm một cái chén gỗ. Chén gỗ này con
muốn làm dành biếu ba đó. Khi nào ba già như ông nội, tay chân run rẩy, ba ăn
cơm với chén gỗ này khỏi lo vỡ". Vừa nghe thế, anh liền chạy thẳng vào
phòng người cha, quỳ xin lỗi cha: "Xin cha tha lỗi cho con, vì con đã
không biết kính trọng cha cho phải đạo". Tối hôm đó, bầu khí gia đình lại
đầm ấm như xưa. Cha mẹ cần nhớ rằng sự hiện diện của người cao tuổi trong nhà là
cả một kho tàng cho cuộc sống gia đình, nhất là sự giáo dục con cái.
Truyền thống đạo hiếu của Á Đông chúng ta luôn đề
cao và cổ võ sự kính trọng ấy. Tính trung thực: Một đứa bé 5 tuổi được người
cha dùng xe gắn máy đưa đi chơi. Đến một ngã tư, người cha vượt đèn đỏ, đưa bé
thắc mắc:
-Ba ơi, cô giáo dạy chúng con phải ngừng xe khi
thấy đèn đỏ mà!
-Con đừng lo, ở đây vắng xe, hơn nữa đâu có công an
mà sợ.
Khi đứa bé lên 12 tuổi, một hôm được mẹ dẫn đi xem
hát, người mẹ dặn con:
-Khi người bán vé hỏi tuổi, con cứ nói con 10 tuổi,
thì mẹ chỉ phải trả nửa tiền vé.
Năm 18 tuổi, cậu con trai bước vào đại học. Vừa hết
kỳ học đầu tiên, cha mẹ cậu nhận được giấy báo của trường như sau: "Thưa
ông bà, chúng tôi rất lấy làm tiếc phải đuổi con ông bà ra khỏi trường, vì cháu
đã vi phạm nội quy, gian lận trong kỳ thi". Nhận được tin này, cha mẹ cậu
thở dài:
-"Làm sao có chuyện đó được, nó vẫn là đưa con
ngoan mà, chắc là nó lại chịu ảnh hưởng của xã hội và bạn bè rồi !" Một
phản ứng xem ra rất bình thường, ai cũng nghĩ mình đã làm hết bổn phận đối với
con cái, chẳng thiếu thứ gì. Tuy nhiên, họ quên một điều: bài học với lòng, cơ
bản và hữu hiệu, chính là cách sống của họ, và cụ thể là lời ăn tiếng nói của
chính họ. Đối với người được cha mẹ, thày cô dạy dỗ cho biết phải ăn ở thế nào
cho phải đạo làm người, thì bốn chữ: lừa bịp, dối trá là những lời nhục mạ rất
nặng nề. Mắng một người nào đó là ăn dơ ở bẩn, lười như hủi, đã là nặng lắm
rồi, nhưng như thế vẫn chưa bị tổn hại danh dự cách nặng nề đâu. Một đứa trẻ ở
dơ có thể vì tự ái mà cố gắng sống sạch sẽ hơn. Một người lười biếng cũng có
thể tự ái mà cố gắng siêng năng làm việc cho tốt hơn. Còn đối với những ai chỉ
biết có phương châm mạnh được yếu thua và xem dối trá lừa bịp là đỉnh cao của
trí tuệ con người, thì dối trá lừa bịp hẳn phải là một nhân đức. Nhưng đối với
những ai được giáo huấn từ bé, khi bị gán cho những tước hiệu ấy thì quả là
điều sỉ nhục, không những cho bản thân mà cho cả gia đình và biết bao người
liên hệ khác. "Một lời nói dối, sám hối bảy ngày" (sách Luân lý giáo
khoa thư lớp đồng ấu). Con người phải gánh chịu hậu quả về sự dối trá của mình.
Trái lại, khi con người nói sự thật, thì luôn cảm thấy bình an thanh thản,
không bận tâm nhớ lại những gì mình đã nói. Có người hỏi ông Breibon, chủ tịch
Hạ viện Hoa Kỳ:
-Thưa ông chủ tịch, mỗi ngày ông gặp không biết bao
nhiêu người, ông không hề ghi lại những gì đã nói, nhưng ông không bao giờ quên
những gì ông đã cam kết; vậy đâu là bí quyết giúp ông nhớ được tất cả những gì
ông đã nói với từng người?
-Nếu bạn nói sự thật, bạn sẽ không cần phải nhớ
nữa.
Đó là điều mà Chúa Giêsu đã nói với chúng ta:
"Sự thật sẽ giải thoát anh chị em !" Đúng vậy, chỉ có sự thật mới
mang lại tự do đích thực cho mọi người. Sống theo sự thật, không có gì phải sợ
hãi, phải bận tâm, cho dù có phải chấp nhận một sự thiệt thòi nào đó. Bao lâu
chúng ta không nhận ra lối sống giả dối của mình, chúng ta vẫn mãi mãi là người
nô lệ: nô lệ trong sự khoe khoang, thành kiến và bóng tối. Cha mẹ của cậu sinh
viên kể trên thật ngỡ ngàng khi nhận ra sự gian dối của người con, và đúng là
ngỡ ngàng vì họ chưa nhận ra chính cách cư xử của mình đã nhào nặn ra một con
người như thế. Còn lời phát biểu của ông chủ tịch Breibon nói lên sự kiên trung
ngay chính luôn được đền đáp bằng sự an vui thanh thản. Và Đức Giêsu khẳng
định: nói sự thật và sống sự thật là xây dựng đời người trên nền đá vững chắc,
chẳng lo sụp đổ, chẳng phải vất vả gió chiều nào, che chiều ấy. Mẫu chuyện
"Lời cọp dặn" là một thực tế hay xảy ra ở bất cứ xã hội nào: Một con
cọp đang hấp hối, kêu lũ con cháu tới dặn:
-Sau khi ta chết, phải thiêu xác ta thành tro bụi,
đừng để sót một sợi lông, một mẩu xương nào cả.
-Sao lại thế ! Tục ngữ vẫn thường nói: "Hùm
chết để da" cơ mà !
-Vẫn biết thế. Song ta để bộ da lại, ta sợ bọn con
lừa nó đội lốt ta đi lừa gạt thiên hạ.
Còn để xương lại, ta sợ bọn con cáo nó mượn oai hùm
mà hà hiếp thiên hạ. Hình như sau khi cọp chết, lũ con cháu không làm đúng theo
lời cọp dặn. Tác giả Nguyễn Thị Oanh viết: "Trở lại sự trung thực, ta thấy
trong cuộc sống, mắt mũi, môi giả, hàng giả, bằng cấp giả, hôn nhân giả ...
Người ta giả vờ với nhau một cách tỉnh bơ, đáng sợ hãi cho tương lai là chuyện
gian dối ở chỗ mà lẽ ra sự trung thực là nguyên tắc hàng đầu. Đó là phòng thi:
thầy làm lộ đề, trò quay cóp." Một nền giáo dục từ thế hệ này qua thế hệ
khác mà không nhấn mạnh đủ về tư cách đạo đức xoay quanh cái trụ là tính trung
thực sẽ dễ bị khủng hoảng. Người Việt Nam chúng ta thường nói: "khôn ba
năm, dại một giờ". Dù ở địa vị nào trong xã hội, không ai được quên những
bài học vỡ lòng khi vừa căp sách tới trường hay khi còn ngồi trên gối mẹ:
"Tiên học lễ, hậu học văn". Trong những bài học cơ bản ấy không gì
quan trọng bằng bài học làm người được xây dựng dựa trên sự thành tín và thủy
chung. Tài ba, giàu có, quyền thế đến đâu đi nữa mà thiếu sự trung thực thế
chẳng khác gì xây dựng nhân cách đời mình trên cát, một khi đổ vỡ thì không chỉ
mất sự nghiệp mà còn mất tất cả con người. Không nói hành nói xấu: Quốc văn
giáo khoa thư dạy về tính nói xấu như sau: "Đem chuyện xấu của người ta ra
mà nói là làm cho người ta mất danh giá, là mình xấu bụng không có độ lượng, ta
chớ nên nói xấu ai bao giờ. Lời nói như bóng ngựa chạy qua cửa sổ, lời nói xấu
một khi đã thốt ra khỏi miệng ta, sẽ thuộc về người khác, chứ không bao giờ trở
lại với ta. Lại nữa, một khi thoát ra khỏi miệng ta, lời nói xấu như lửa gặp
gió: càng lan đi, càng cháy mạnh và tàn phá tất cả những gì chúng gặp".
Bài học vỡ lòng trên thật chí lý mà các bậc làm cha mẹ không thể bỏ qua, song
phải luôn nhắc nhở và uốn nắn con cái ngay từ nhỏ. Dạy cho chúng biết tôn trọng
danh thơm tiếng tốt của người khác thì không bao giờ bị thiệt thòi, chỉ có lợi
mà thôi. Như khi ta xức dầu thơm cho người khác thì tay ta cũng được hưởng lây
mùi thơm mà ta vừa xức cho người khác. Tính mách lẻo rất dễ có nơi đứa trẻ. Đó
không hẳn là phát xuất từ tính thật thà, đơn sơ hồn nhiên của đứa trẻ: có sao
nói vậy, song còn do khuynh hướng ích kỷ, chiếm hữu, không muốn người khác hơn
mình. Cũng sách Quốc văn giáo khoa thư kể chuyện đứa trẻ hay mách lẻo làm cho
bạn bè phải phạt là đứa trẻ hèn hạ khiến bạn bè xa lánh. Chuyện kể rằng trò Nhĩ
nghỉ một ngày, hôm sau đến trường nói dối thầy rằng hôm qua con bị sốt không đi
học được. Trò Nghiêm ở cuối lớp muốn làm cho Nhĩ bị phạt, liền đứng lên mách
rằng:
-Thưa thầy, trò Nhĩ nói dối ạ ! Hôm qua con trông
thấy trò ấy đi câu cá ở ngoài bờ sông.
-Thầy có hỏi trò đâu mà trò nói. Trò Nhĩ nói dối có
tội đã đành, nhưng trò Nghiêm mách lẻo như thế thì thật vô hạnh. Trò Nghiêm
thẹn đỏ mặt, và từ đó cả lớp nhìn trò Nghiêm không mấy thiện cảm. Việc mình,
mình biết, việc người, người hay là cách sống liêm chính, không nuôi dưỡng lòng
thù hận hay ghen tị, không tố cáo người khác nhất là khi không vì công ích mà
chỉ vì muốn dìm người. Yù thức về công bằng: Một người thanh niên nọ gõ cửa nhà
bà hàng xóm, và hỏi bà có muốn mua dâu mà cậu vừa mới hái ở vườn về. Bà ta nói
rằng chỉ mua đúng một ký thôi. Người thanh niên trao giỏ dâu cho bà và đứng đợi
ở cổng để chơi đùa với mấy con chó. Người đàn bà thắc mắc:
-Cậu không muốn vào trong nhà sao? Cậu không sợ tôi
gian lận sao? Cậu sẽ nghĩ gì nếu tôi lấy quá một ký?
-Điều đó tuỳ bà, bà lấy hơn một ký thì chỉ lỗ cho
bà mà thôi.
-Tôi lấy nhiều hơn thì làm sao mà gọi là lỗ được?
-Nếu bà lấy hơn một ký mà chỉ trả tiền một ký thì
tôi chỉ mất một số trái dâu thôi, nhưng còn bà, bà có biết mình mất gì không?
Thưa bà, bà sẽ đánh mất danh dự của bà, vì người ta sẽ gọi bà là một kẻ dối trá
hay một người ăn cắp. Một đứa trẻ lên hai hay ba tuổi đã biết phản ứng khi ranh
giới giữa quyền lợi và sự công bằng bị vi phạm. Trong nhà, trên bãi cỏ hay ở
trường học, chúng ta hay nghe trẻ con thốt lên: "Như thế là không công
bằng chút nào !". Do đó, con cái chúng ta dù còn nhỏ nhưng chúng vẫn tiếp
thu và hiểu được thế nào là sống có tư cách và đạo đức, thế nào là đúng và công
bằng. Cha mẹ có thể dạy cho con cái rằng người có tư cách đạo đức không những
đòi hỏi công bằng cho bản thân, mà còn tranh đấu cho công bằng của xã hội, cho
dù có phải chuốc lấy thảm hoạ. Công bằng không chỉ là làm đúng, mà còn nỗ lực
và kiên trì sửa chữa những sai trái để đạt đến chính nghĩa. Không để cho mình
bị lôi kéo bởi thành kiến hay giáo điều là nuôi dưỡng ý thức về công bằng.
Chúng ta dễ có khuynh hướng đánh giá một tình huống hay một con người không dựa
vào sự thật khách quan, mà theo những ý nghĩ có saün, và đó là thiếu công bằng
trong phán đoán. Công bằng thiết yếu là tôn trọng những gì thuộc về người khác,
mà danh dự là điều quan trọng nhất. Giáo dục cho con cái về ý thức công bằng là
thiết yếu dạy dỗ cho chúng biết tôn trọng danh dự của người khác. Bài học vỡ
lòng về tôn trọng danh dự của người khác được sách luân lý giáo khoa thư diễn
tả như sau: "Ta chớ nên chế nhạo ai bao giờ. Khi ta thấy ai gặp việc chẳng
may, thì ta phải săn sóc hỏi han, tìm cách giúp đỡ người ta, như vậy mới phải
đạo làm người". Sách luân lý giáo khoa thư cũng minh hoạ bằng một câu
chuyện: Giờ nghỉ học, học trò ra chơi ngoài sân, Giáp chạy vấp, ngã vào một gốc
cây đứng ôm bụng khóc. Nhân và mấy bạn nữa chạy lại săn sóc hỏi han. Đinh thấy
thế đứng cười và chế nhạo Giáp rằng: "Anh đau bụng đấy à, sao mà kêu khóc
thế?" Chẳng ngờ, được một lát, Đinh cũng trượt chân ngã, đứng nhăn nhó kêu
đau. Bạn bè thấy thế, ai cũng cười chế nhạo lại ràng: "Thế bây giờ anh đau
răng đấy à ?" Đinh vừa chế nhạo Giáp xong, bây giờ bị người ta chế nhạo mình,
thật là đáng kiếp. Cười người hôm trước, hôm sau người cười. Mỗi người là một
nhân vị độc nhất vô nhị, mỗi người đều có một giá trị cá biệt mà người khác
không thể có được. Dù nghèo hèn đốn mạt đến đâu, mỗi người đều chứa đựng trong
mình một kho tàng mà người khác không thể có được. Không ai nghèo đến độ không
có gì để trao tặng, và cũng không ai giàu có đến độ không cần nhận lãnh bất cứ
một cái gì.
Có một câu chuyện về tổ phụ Ápraham như sau: Một
hôm, Ápraham mời một lữ khách vào lều của mình dùng bữa. Vừa biết lòng tin của
Apraham nơi Thiên Chúa, người lữ hành bắt đầu đưa tên Chúa ra nguyền rủa. Nghe
thế, không kềm chế được cơn giận dữ. Apraham liền tống cổ tên vô lại ra khỏi
lều của mình. Tối hôm đó, Apraham cầu nguyện với Chúa: "Lạy Chúa, hôm nay con
đã bảo vệ danh dự của Chúa bằng cách tống cổ ra khỏi lều của con một tên vô lại
đã dám đưa tên Chúa ra nguyền rủa". Nhưng Chúa liền nói: "Người đó đã
nguyền rủa ta từ 50 năm rồi, vậy mà Ta vẫn ban lương thực hằng ngày cho nó,
ngươi không thể dọn cho nó một bữa ăn được sao?". Vượt qua mọi thành kiến
và kỳ thị đối với người khác là sống công bằng và tôn trọng danh dự của người
khác. Do thương tích của tội lỗi, ai trong chúng ta cũng dễ rơi vào dối trá và
đánh mất nhân cách của mình. Ai trong chúng ta cũng cảm nghiệm và trải qua
những vấp ngã. Trong một tình huống của cuộc sống, người ta phải chọn giá trị
nào và hy sinh giá trị nào để không đánh mất nhân cách của mình? Có nên vì đời
tư mà hy sinh sự chân thật không? Có nên vì đeo đuổi công lý mà quên đi sự cảm
thông không? Chuyện gian díu của tổng thống Bill Clinton với cô Monica Lewinsky
ngày nào không còn là chuyện riêng tư nữa, mà đã trở thành công khai bởi vì nó
đụng chạm đến một trong các giá trị làm nền tảng cho sự hiện hữu và trường tồn
của nền dân chủ Hoa Kỳ là sự trung thực. Chuyện thầm kín của ông đã bị công
khai là vì ông đã bội thề. Giơ tay thề nói sự thật không phải là một công thức
làm cho có lệ, song là thể hiện sự cam kết của mình bằng tất cả nhân cách của
con người. Ái nữ của tổng thống Kenedy có đưa lời bình luận về vụ việc này trên
tuần báo Newsweek, số ra đầu năm 1999, như sau: "Trong gia đình tôi, chúng
tôi được dạy dỗ và chứng tỏ bằng gương sáng rằng chính trị có thể là một nghề
nghiệp cao quý, mỗi người chúng tôi phải phục vụ xứ sở vốn đã được trao tặng
rất nhiều điều cho chúng tôi. Tuy nhiên, càng ngày tôi càng lo lắng rằng con
cái tôi đã tỏ ra e dè đối với chính phủ, những gì đang xảy ra tại thủ đô
Washington làm cho chúng hoang mang, do dự và sợ hãi. ... trẻ em cần được dạy
nói sự thật. Mới đây, Jack, đứa con trai 5 tuổi của tôi, trông thấy tấm hình
của tổng thống Bill Clinton, nó liền nói: "Ông ta nói dối". Tôi không
thể không đồng ý với nó, nhưng tôi giải thích cho nó rằng ai trong chúng ta
cũng có những lầm lỗi, và chúng ta đánh giá người khác không dựa trên một điều
xấu nhất họ đã làm, song trên toàn bộ cuộc sống và công việc của họ".
Bây giờ sóng gió đã im lặng, các nhân vật kể trên
lại bắt đầu làm lại cuộc đời của mình. Ai cũng một lần lầm lỗi, nhưng có người
phải trả giá đắt hơn những người khác. Thuyền to thì sóng to, càng trèo cao thì
ngã càng đau, càng ở những địa vị cao thì vết thương do lầm lỡ gây ra càng trầm
trọng. Chính vì thế, để sống thật tình người, chúng ta càng phải cảm thông và
tha thứ nhiều hơn. Càng cảm thông và tha thứ, con người càng lớn lên trong nhân
cách của mình. Lòng biết ơn: Đức cha Bùi Tuần trong tuyển tập Nói với chính
mình có nhận xét về lòng biết ơn và thực trạng hôm nay như sau: "Kẻ muốn
được ơn thì quá nhiều, kẻ biết ơn thì quá ít. Đếm người biết ơn dễ hơn đếm
người vô ơn, vì số này lớn quá. Có những con cháu vô ơn, có những học trò vô
ơn, có đủ thứ người vô ơn. Làm ơn có thể không đòi trả nghĩa, nhưng đã chịu ơn
thì phải biết ơn. Cho đi để không mong nhận lại, nhưng đã nhận là phải có bổn
phận phải đáp trả. Đáp trả trong biết ơn không có nghĩa một sự bồi hoàn đổi
chác, nhưng là một sự bày tỏ điều mình nhận biết về giá trị vật chất và tinh
thần của ơn nhận được". Lịch sự lễ phép là bài học vỡ lòng mà cha phải
luôn luôn dạy cho con cái. Mới bập bẹ biết nói, những công thức lịch sự phải
học là tập nói: cám ơn, xin lỗi, xin vui lòng ... Những đứa trẻ được dạy cho
biết phải nói cám ơn ngay từ thời thơ ấu sẽ trở thành những người luôn biết
nhận ra lòng tốt và điều thiện hảo nơi người khác. Truyện "Đi tết
thày" của tác giả Nguyễn Khoa Đăng có dạy về lòng biết ơn như sau: Sáng 30
Tết, một đứa trẻ đang lớn được bố sai đi tết thày một mình. Em vốn nhút nhát,
lại rất sợ đến nhà thầy giáo có tiếng là nghiêm khắc. Em đến nhà thầy mà không
dám gõ cửa, bèn trở về. Dọc đường em lại sợ bố, nên đã ghé vào quán nước của
một bà già nghèo khó, và em vội đặt gói quà Tết lên đôi tay nhăn nheo của bà
rồi lẩm bẩm chẳng ra hơi "Thầy bu cháu ..." rồi bỏ chạy. Về nhà bố
khen giỏi, nhưng em lại càng lo. Mồng Một Tết, mồng Hai trôi qua không có
chuyện gì, bỗng mồng ba thì bà cụ xuất hiện:
-Năm mới kính chúc ông bà ... và
xin cám ơn ông bà đã nghĩ nghĩ đến kẻ nghèo khổ như tôi.
Cặp bánh không phải bằng gạo
thịt đâu, bằng vàng đấy. Đứa bé tái người khi ông bố hỏi vặn:
-Vậy là thế nào?
-Dạ, thầy con nhận, rồi sai con
tết lại bà.
-Thật không?
-Thật.
Ông bố chưa kịp kiểm tra thì
thày giáo xuất hiện:
-Có ít mứt đến mừng tuổi ông bà
đã cho bánh Tết, gớm bánh gói thật khéo quá.
Đứa bé không thể tin vào tai mình, bèn chạy một
mạch đến nhà bà già, vẫn thấy cặp bánh còn để trên bàn thờ tổ tiên. Bà lão phân
trần:
-Bữa cho quà, cậu để quên cái thư cho ông giáo, tôi
đã chuyển cho ông giáo, tiện thể biếu ông ít trái cam, cám ơn ông giáo đã dạy
học trò biết nghĩ đến người nghèo. Vậy là có lá thư trong gói quà mà đứa bé
không hay biết, nhờ thày giáo đã đọc thư và biết rõ mọi chuyện nên thày đã đỡ
đòn cho cháu bé.
Bài học của câu chuyện trên thật rõ: từ ông bố đến
bà già nghèo hay thày giáo, tất cả đều muốn dạy cho đứa trẻ bài học về lòng
biết ơn. Tuy nhiên, lời cám ơn sẽ trở thành máy móc, trống rỗng vô nghĩa khi nó
không diễn tả được chiều sâu đích thực của tâm hồn là tình yêu thương, là lòng
biết ơn. Do đó, tập cho con cái biết nói hai tiếng cám ơn đã đành, cha mẹ còn
phải giải thích cho chúng biết tại sao phải tỏ lòng biết ơn người khác. Nói cám
ơn mà không biết tại sao mình mang ơn là thái độ không chân thành, và như vậy
là vô nghĩa. Khi ta nhận được bất cứ điều gì, dù nhỏ hay lớn, ta luôn phải tỏ
lòng biết ơn, ít là qua lời cám ơn. Ta không thể tự mình mà có, và ta cũng
chẳng thể nên người nếu không nhờ người khác, không thể hạnh phúc mà không có
người khác. Tất cả những gì ta có, ta đang hưởng dùng hay đang làm, ta hoàn
toàn tuỳ thuộc vào người khác. Nhận thức được như thế làm sao ta không thấy
rằng sống là một chuỗi những ân huệ, và nếu tất cả những gì ta có đều là do
nhận lãnh thì tại sao ta lại có thể vô ơn được. Một xã hội mà trong đó con
người không cần biết đến người khác nữa, một xã hội sống theo luật mạnh được
yếu thua, là một xã hội bệnh hoạn với văn minh của sự chết chứ không phải văn
minh của tình thương. Sống cho tử tế, sống cho ra người, sống đúng tư cách con
người trước tiên là sống có tình có nghĩa, là luôn thể hiện lòng biết ơn. Sống
trưởng thành và có trách nhiệm: Đã là người, ai cũng muốn được xem như một
người trưởng thành. Trưởng thành vốn là một giá trị phổ quát mà mọi thiếu niên
đều mong đạt cho mình. Tuy nhiên, được xem như một người trưởng thành và thực
sự trưởng thành, giữa hai điều có cả một vực thẳm. To lớn về thể xác có thể là trưởng
thành thể lý, chứ chưa chắc đã là trưởng thành về tâm linh. Có những tâm hồn
trẻ thơ nghèo khổ nhưng lại trưởng thành, có nhân cách hơn nhiều kẻ quyền thế
trong xã hội. Một con người suốt đời bị đam mê quyền lực lèo lái, chà đạp nhân
phẩm của người khác, dù họ có ở vào đỉnh cao của quyền bính, thì khó bảo rằng
người ấy đã đạt tới sự trưởng thành về nhân cách. Tuy nhiên, trưởng thành không
có nghĩa là không thể sai lầm vấp váp. Nhà hiền triết Socrate nói rằng khôn
ngoan nhất là người biết nhận ra sự ngu dốt của mình. Do dó, càng trưởng thành
thì càng tỏ ra khiêm tốn hơn, khoan nhượng hơn và linh hoạt hơn. Giữa dòng đời,
không ai có thể bơi lội thay cho người khác, không ai có thể sống thay người
khác. Dạy cho con cái biết bơi lội đây chính là truyền đạt thế nào cho chúng
biết tự mình đối đầu với những thách đố hay nghịch cảnh của cuộc sống. Khó khăn
lớn nhất đối với cha mẹ là có dám lìa xa con cái, nghĩa là có chấp nhận đứa con
bé bỏng của mình bây giờ đã trở thành con người trưởng thành? Món quà quý giá mà
cha mẹ có thể trao tặng cho con cái, không phải là vàng bạc châu báu, mà chính
là sự can đảm và tin tưởng để chúng ra đi và sống cuộc sống của chúng. Ngay từ
lúc con cái còn nằm nôi, cha mẹ đã phải tự hỏi: "Tôi phải cho con tôi
những đức tính nào, những giá trị nào, những lý tưởng nào, những nguyên tắc
nào, những ưu tiên nào để khi lớn lên, nó lấy đó làm hành trang cho cuộc
sống". Đó chính là tập cho chúng quen dần với sự trưởng thành. Một đứa bé
chập chững leo lên chiếc ghế, nhưng không giữ được thăng bằng đã té xuống đất.
Phản ứng tự nhiên mà chúng ta dạy cho chúng là đánh vào cái ghế: "Cái ghế
này, mày làm tao té". Trẻ con thường hành động thiếu suy nghĩ và dễ quy
trách cho bất cứ cái gì cản trở bước tiến của chúng. Lớn lên, chúng ta cũng dễ
quy trách cho người khác về những thất bại hay lầm lỗi của mình. Câu chuyện
Ađam và Eva ăn trái cấm là một minh chứng thường xảy ra trong cuộc sống con
người. Không nhận lãnh trách nhiệm, mà cứ quy trách cho hoàn cảnh và người khác
là một thái độ thiếu trưởng thành. Những người không trưởng thành luôn tìm được
những lý do nào đó, dĩ nhiên ở ngoài bản thân mình, để tự bào chữa khi gặp thất
bại. Ơû đây ta có thể dựa vào uy tín của sự cảm thông để làm giảm trách nhiệm
của người khác. Nhưng cảm thông với người khác là một chuyện, còn tự do và
trách nhiệm của bản thân là chuyện khác. Không phải vì người khác tỏ ra thông
cảm và tha thứ cho mình, mà mình có thể phủi tay và chối bỏ trách nhiệm. Hoàn
cảnh có thể giảm nhẹ trách nhiệm, nhưng không vì thế mà con người có thể chối
bỏ hoàn toàn trách nhiệm của mình. Người được tôi luyện trong những hoàn cảnh
khó khăn lại là những người đứng vững nhờ ý thức trách nhiệm và trưởng thành.
Nơi động vật hay thực vật, trưởng thành hay chín mùi là một hiện tượng thể lý,
còn nơi con người, trưởng thành đích thực là sự trưởng thành trong bản chất của
tinh thần. Đứa trẻ cần được giáo dục để biến những tiêu chuẩn và nguyên tắc
ngoại tại thành những xác tín cá nhân. Tiến trình đồng hoá này cần phải được ý
thức và tự do đón nhận. Trẻ con cần phải được theo dõi, nhắc nhở và ngay cả
cưỡng bức để làm những việc bổn phận của chúng. Cha mẹ cần phải ấn định giờ
giải trí cho chúng; đồ ăn thức uống và cách ăn uống của chúng cũng phải được
theo dõi kỹ càng. Tập cho chúng chu toàn những việc nhỏ, vì việc nhỏ mới thực
sự là thước đo sự trưởng thành. Nói chung, các tiêu chuẩn cần phải được áp đặt
cho trẻ con, bởi vì chúng thường chiều theo khuynh hướng tự nhiên và cảm hứng
nhất thời, hơn là nghĩ tới tương lai. Người trưởng thành sẽ không bận tâm đến
chuyện có ai thấy mình hay không, bạn bè có làm hay không làm, người khác nghĩ
gì về mình..., người trưởng thành hành động theo những nguyên tắc và xác tín
của mình hơn là vì sợ người khác chê cười. Nói tóm lại, trưởng thành chính là
sự kết hợp hài hoà của nhiều đức tính nhân bản để làm nên tổng thể nhân cách
của một con người. Đào luyện lương tâm: Một người nông dân nọ vì mùa màng thất
bát nên nghĩ đến chuyện trộm lúa. Một hôm ông dắt đứa con lên tám tuổi sang
ruộng của người hàng xóm cắt lúa. Người ăn trộm thì khó có thể đi đứng cách
bình thường, dù là giữa đêm tối. Sau khi về tới ruộng nhà, đứa con mới nhắc nhở
bố: "Con thấy bố cứ nhìn quanh quất, mà bố quên nhìn lên trời". Đứa
bé đã biết được điều mà bố nó quên baüng đi, đó là còn có một ánh mắt vô hình
còn tinh tường gấp bội ánh mắt người đời. Aùnh mắt ấy chính là ánh mắt của
Thiên Chúa được thu gọn trong ánh mắt lương tâm của mỗi người. Chính ánh mắt đó
mới soi rọi để con người biết thế nào là phải, và thế nào là trái. Trong cuộc
sống thường ngày, không phải mọi người đều có cùng một nhận thức như nhau về
thiện ác hay tốt xấu. Có người cho rằng tốt là những gì phù hợp với lý trí,
nghĩa là một cư xử hợp lý được coi là tốt. Có người định nghĩa tốt theo cảm
xúc, cái làm cho chúng ta vui thích. Có người lượng giá tốt xấu theo những
chuẩn mực của xã hội hay đám đông. Có người dựa theo trực giác mà lượng giá:
tốt là điều tự nhiên tôi cảm thấy tốt. Thực ra, các yếu tố như lý trí, cảm xúc
và trực giác, trong một mức độ nào đó, có thể giúp chúng ta phân biệt tốt xấu,
song chúng rất giới hạn do thiếu hiểu biết, hoặc bị chi phối bởi hoàn cảnh, dư
luận... cho nên chúng rất tương đối. Có nhiều định nghĩa về tốt xấu mang tính
hàm hồ, dễ đánh lừa trẻ con. Chẳng hạn, ta biện minh cho hành động xấu của mình
khi lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện, rằng mọi phương tiện đều tốt miễn
là đạt tới cứu cánh tốt. Trong một xã hội lấy cứu cánh biện minh cho phương
tiện, thì tốt là một từ ngữ dễ bị lạm dụng nhất. Trẻ con dễ ngộ nhận rằng tốt
là thành công bằng mọi giá, ngay cả gian lận. Tiến sĩ nguyễn Chí Long sống ở
Darmstadlt, Đức, có người bạn là phó tiến sĩ ở Hà Nội sang dự hội nghị ở
Stuttgart. Ông phó tiến sĩ này hãnh diện khoe rằng con ông đang học lớp một và
được làm lớp trưởng.
-Thế làm lớp trưởng, cháu phải làm gì?
-Thì báo cho cô giáo biết những đứa nào không vâng
lời cô, đứa nào quậy phá... Nhiều đứa sợ nó lắm đấy. Bằng chứng là một hôm, tôi
kiểm tra cặp sách của nó, thấy có một phong bì có hai trăm đồng. Tôi vô cùng
ngạc nhiên, số tiền này chẳng lớn nhưng chúng tôi chẳng bao giờ cho tiền cháu,
những gì cháu cần thì chúng tôi mua hết. Tôi gọi nó tra hỏi thì cháu cho biết
số tiền này là của bạn cho. Tôi vặn hỏi lý do thì cháu đáp tỉnh bơ: Dạ vì nó
... sợ con ghi tên báo cô giáo. Nếu việc biếu xén này là do tình cảm, thì việc
nhận 200 đồng, dù giá trị chỉ bằng cục kẹo, cũng đáng hoan nghênh. Thế nhưng,
hành động cho và nhận của hai đứa bé trên đây không hề có tính xây dựng, không
hề nằm trong chiều hướng tốt đẹp mà nó vốn phải có. Biếu tiền để bạn khỏi ghi
tên báo cô giáo, và nhận tiền để không ghi tên bạn vào sổ đen; hai hành động
đều phát xuất từ những suy nghĩ không lành mạnh, và đáng lẽ không thể có nơi
đứa trẻ đang độ tuổi lớp một. Vậy mà ở đây, hai đứa bé đã suy nghĩ và hành động
như một chuyện rất quen thuộc và cũng tốt như mọi chuyện bình thường khác. Dĩ
nhiên, thành công là điều tốt trong cuộc sống, nhưng cái tốt không phải là tất
cả cuộc sống con người. Có một cái tốt không nằm trong sự thành công, nhưng chỉ
nằm trong lương tâm của con người mà thôi. Vậy còn đâu là lương tâm chân chính
khi nó bị ô nhiệm và chai lì đến như vậy! "Con hổ sâu xé miếng mồi, rồi
lăn ra ngủ ngon; duy có kẻ sát nhân sau khi nhúng tay vào máu thì không làm sao
nhắm mắt được, vì hình ảnh báo oán cứ hiện lên trước mắt y"
(Chateaubriand). Chính nơi lương tâm, con người tìm kiếm cội nguồn để lượng giá
tốt xấu; song ánh mắt lương tâm ấy vẫn có thể bị lu mờ, cội nguồn ấy có thể bị
che khuất. Do đó, ngay từ tuổi thơ của con cái, cha mẹ cần phải làm cho ánh mắt
và cội nguồn ấy rạng sáng trong tâm hồn chúng.
* * *
Còn nhiều lãnh vực giáo dục nhân bản cho con cái mà
chúng tôi không thể trình bày hết ở đây như lịch sự lễ phép, sống liên đới,
lòng yêu nước, tình bạn bè ... Điều chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây là đã mang
trách nhiệm giáo dục con cái thì cha mẹ cũng phải tự giáo dục chính mình. Có
một bà mẹ đưa đứa con nhỏ đến gặp Gandhi, vì cha già của dân tộc Ấn Độ, và nhờ
ông khuyên đứa bé bỏ tật ăn ngọt. Con người được xem là có tâm hồn vĩ đại ấy đã
không đáp lời ngay, song hẹn hai mẹ con vào ba tuần sau. Đúng ba tuần sau, bà
mẹ lại đem con đến. Sau khi ông khuyên nhủ đứa bé, bà mẹ hỏi lý do tại sao ông
phải hoàn lại những ba tuần. Mahatma Gandhi giải thích: "Chính tôi cũng là
người thích ăn kẹo, để có thể đưa ra lời khuyên nhủ, chính tôi đã phải từ bỏ
tật xấu ấy đã". Quả vậy, người ta không thể cho điều mình không có. Cha mẹ
không thể truyền đạt cho con cái những giá trị mà chính họ đã không sống trước,
hoặc đã không phấn đấu sống mỗi ngày những giá trị ấy. Cha mẹ không chỉ dạy dỗ
con cái nên người, mà cha mẹ trước tiên còn phải tự đào luyện, bởi sự trưởng
thành không bao giờ là chấm dứt. Mỗi người ai cũng có những đức tính tốt và vô
số những điều chưa tốt. Bao lâu còn sống là còn phấn đấu để nên hoàn thiện. Bản
thân cha mẹ hoàn thiện cũng sẽ kéo theo cả gia đình hoàn thiện.