của Đức
thánh cha Gioan-Phaolô II
trong Giáo HỘi và thẾ giỚi
Kính gửi
:
Các Giám
mục,
Các linh
mục và phó tế,
Các tu
sĩ nam nữ
Và toàn
thể giáo dân
NhẬp đỀ
1.
Các kitô-hỮu giáo dân (Christifideles
laici) mà “ơn
gọi và sứ vụ của họ trong Giáo Hội và trong thế giới hai mươi năm sau Công Đồng
Vatican II” đã là chủ đề của khóa họp Thượng-hội-đồng Giám Mục năm 1987, các
tín hữu này thuộc về Dân Thiên Chúa, được biểu tượng qua những người thợ làm
vườn nho, như thánh Matthêu thuật lại trong sách Tin Mừng : “"Nước Trời
giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong
vườn nho của mình. Sau khi đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông
sai họ vào vườn nho làm việc” (Mt 20,1-2).
Dụ
ngôn của Tin Mừng mở ra trước mắt chúng ta vườn nho mênh mông của Chúa, và một
đám đông con người, cả nam lẫn nữ, được Chúa mời gọi và sai đi làm tại vườn
nho. Vườn nho, chính là thế giới (x. Mt 13,38), phải được biến đổi theo chương trình của Thiên Chúa,
hướng tới ngày hoàn thành chung cuộc của Nước Thiên Chúa.
Cả các anh nữa, vào làm vườn nho
cho tôi đi !
2.
“Khoảng
chín giờ sáng, ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng
ngoài chợ. Ông bảo họ : ‘Cả các anh nữa, vào làm vườn nho cho tôi đi !’ (Mt
20,3-4).
Kể
từ ngày xa xưa ấy của lịch sử, lời mời gọi trên của Chúa vẫn không ngừng vang
vọng : Lời ấy gửi tới mọi người sống trên trần gian này.
Ngày
nay, trong luồng gió canh tân của Thánh Thần ngày lễ Ngũ Tuần, do Công Đồng
Vatican II đem lại, Giáo Hội cảm nghiệm sâu sắc hơn về tính chất truyền giáo
của mình, và với thái độ vâng phục quảng đại, Giáo Hội nghe lại tiếng nói của
Chúa, Đấng sai Giáo Hội vào trần gián như “bí tích phổ quát cứu rỗi”[1].
Cả các anh nữa : Lời mời gọi không chỉ gửi
tới các vị Chủ chăn, các linh mục, các tu sĩ nam nữ, nhưng tới mọi người : cả
các giáo dân cũng được mời gọi đích danh, nhận lãnh từ Ngài một sứ vụ đối với
Giáo Hội và thế giới. Khi giảng thuyết cho các kitô-hữu, Thánh Grêgôriô Cả nhắc lại điều đó khi ngài diễn
giải dụ ngôn thợ làm vườn nho trong một bài giảng cho dân chúng : “Anh em thân
mến, hãy lưu ý một chút về cách sống của anh em, hãy nghiêm chỉnh xét xem anh
em có phải đã là thợ làm vườn của Chúa không. Mỗi người hãy tự xét việc mình
làm và nhận định xem mình có làm việc trong vườn nho của Chúa hay không”[2].
Được
thừa hưởng di sản vô giá về giáo lý, tu đức và mục vụ, Công Đồng đã viết những
trang thật tuyệt vời về bản tính, phẩm giá, linh đạo, sứ mạng và trách nhiệm
của giáo dân. Họa theo lời mời gọi của Đức Kitô, các Nghị Phụ công đồng đã mời gọi mọi giáo dân, nam cũng như nữ, vào
làm việc trong vườn nho của Chúa : “ Nhân danh Thiên Chúa, Thánh
Công Đồng hết sức kêu mời tất cả các giáo dân, hưởng ứng sự thúc đẩy của Chúa
Thánh Thần, hãy mau mắn, đại độ và sẵn sàng đáp lại tiếng gọi của Chúa Kitô,
Đấng giờ đây đang tha thiết mời gọi họ. Ước gì giới trẻ hiểu rằng lời mời gọi
này được đặc biệt gửi tới họ và ước gì họ vui mừng và quảng đại đón nhận. Quả
thật, chính Chúa một lần nữa nhờ Thánh Công Đồng này, mời gọi tất cả các giáo
dân hãy kết hợp với Người ngày một mật thiết hơn và nhận thức được những gì của
Người cũng là của chính mình (x. Pl 2,5), họ hãy tham gia vào sứ mạng cứu rỗi của chính Người, và
một lần nữa Người sai họ đi tới các thành và những nơi Người sẽ đến (x. Lc 10,1)”[3].
Cả các anh nữa, vào làm vườn nho cho tôi đi !
Những lời này cũng âm thầm vang vọng trong suốt thời gian Thượng-hội-đồng Giám
Mục nhóm họp tại Rôma từ ngày 01 đến 30 tháng mười năm 1987. Theo hướng đi của
Công Đồng và được những kinh nghiệm cá nhân và cộng đoàn của toàn thể Giáo Hội
soi sáng, cộng thêm sự đóng góp của các Thượng-hội-đồng trước, các Nghị Phụ đã
nghiên cứu sâu xa về “ơn gọi và sứ mạngï của giáo dân trong Giáo Hội và trong
thế giới, hai mươi năm sau Công Đồng Vatican II”.
Khó
họp này có sự hiện diện của những đại biểu giáo dân nam nữ ưu tú, những người
đã góp phần quý báu vào công việc của Thượng-hội-đồng. Bài giảng bế mạc đã minh
nhiên nhìn nhận điều đó : “Chúng tôi tạ ơn Chúa vì, trong thời gian
Thượng-hội-đồng nhóm họp, không những chúng tôi được vui mừng về sự tham dự của
các giáo dân (nam nữ dự thính viên),
nhưng hơn thế nữa vì diễn tiến các cuộc tranh luận đã cho chúng tôi nghe được
tiếng nói của các khách mời, là các đại biểu giáo dân đến từ mọi miền trên thế
giới, từ những quốc gia khác nhau. Điều đó cho phép chúng tôi sử dụng các kinh
nghiệm, các ý kiến và các đề nghị của họ phát xuất từ lòng yêu mến sự nghiệp
chung”[4].
Nhìn
vào thời hậu-Công-Đồng, các Nghị Phụ của Thượng-hội-đồng đã có thể nhận thấy
đâu là cách thức được Thánh Thần sử dụng để tiếp tục làm cho Giáo Hội thêm tươi
trẻ, bằng cách gợi lên trong Giáo Hội những năng lực mới của sự thánh thiện,
với sự tham gia của đông đảo giáo dân. Trong số nhiều chứng từ, chúng tôi thấy được một chứng từ về những năng
lực đó, trong kiểu cách mới về sự cộng tác giữa linh mục, tu sĩ và giáo dân ;
trong sự tham dự tích cực vào phụng vụ, vào việc loan báo Lời Chúa, vào việc
huấn giáo ; trong nhiều dịch vụ và trách vụ được trao phó cho giáo dân, và họ
đã đảm nhận rất tốt ; trong việc nở rộ các nhóm, các hiệp hội, các phong trào
tu đức và dấn thân ; trong việc tham gia rộng rãi và rõ nét hơn của phụ nữ vào
đời sống của Giáo Hội và sự phát triển của xã hội.
Đồng
thời, Thượng-hội-đồng cũng không quên ghi nhận rằng con đường thời
hậu-công-đồng của giáo dân không phải là không có khó khăn và nguy hiểm. Cụ thể, phải nhắc đến hai cám dỗ
mà không phải lúc nào cũng tránh được : cám dỗ quá miệt mài với những dịch vụ
và trách vụ trong Giáo Hội, đến nỗi đôi khi xao lãng trên thực tế các trách
nhiệm chuyên môn của mình thuộc các lãnh vực nghề nghiệp, xã hội, kinh tế, văn
hóa và chính trị ; cám dỗ ngược lại là bào chữa cho sự tách biệt không thể biện
minh giữa đức tin và đời sống, giữa việc đón nhận Tin Mừng và hoạt động cụ thể
trong các lãnh vực trần thế khác nhau.
Trong
quá trình làm việc, Thượng-hội-đồng không ngừng tham chiếu Công Đồng Vatican
II, đã hai mươi năm qua mà giáo huấn của Công Đồng liên quan đến giáo dân vẫn
có tính thời sự đáng ngạc nhiên, đôi khi có tầm mức tiên tri : một giáo huấn
như thế có khả năng soi sáng và gợi hứng cho các câu trả lời cần phải đưa ra
ngày hôm nay trước những vấn đề mới mẻ. Thực vậy, thách đố mà các Nghị Phụ
Thượng-hội-đồng nêu lên, là vạch ra những con đường chính xác ngõ hầu “lý
thuyết” sáng ngời về bậc giáo dân, do Công Đồng đề ra, có thể trở thành môät sự
“thực hành” chính thực trong Giáo Hội. Mặt khác, một số vấn đề được đặt ra do
một tính chất “mới mẻ” bào đó ; đến độ người ta có thể cho chúng thuộc thời
hậu-công-đồng, ít là theo nghĩa thời gian : các Nghị Phụ đã hoàn toàn chính
đáng khi lưu tâm đặc biệt đến những vấn đề này trong các cuộc tranh luận và suy
tư. Trong số đó, cần phải kể ra những vấn đề liên hệ đến các tác vụ và các dịch
vụ trong Giáo Hội đã hay sẽ được trao cho giáo dân, việc phổ biến và phát triển
“những phong trào” mới bên cạnh những hình thức khác về các hiệp hội giáo dân,
vị trí và vai trò của phụ nữ trong Giáo Hội cũng như trong xã hội.
Sau
khi hoàn thành công việc một cách nhiệt thành, quảng đại, với khả năng chuyên
môn, các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng đã bày tỏ với tôi lòng ước mong khao khát của
các ngài là vào thời điểm thuận tiện, tôi sẽ trình bày với toàn thể Giáo Hội
một văn kiện đúc kết về đề tài kitô-hữu giáo dân.[5]
Vì
thế, Tông Huấn Hậu-Thượng-hội-đồng này muốn làm nổi bật tất cả giá trị công
việc của Thượng-hội-đồng, từ các bản
Đề-cương (Lineamenta)
đến Tài-liệu làm việc (Instrumentum laboris), từ bản phúc trình nhập đề cho đến những đóng góp
của từng giám mục, từng giáo dân và cho đến báo cáo tổng hợp sau khi đã tranh
luận tại phiên họp khoáng đại, từ những thảo luận và phúc trình của các “nhóm
nhỏ” (circuli minores) cho đến những “đề-nghị”
(propositiones) và Sứ-điệp kết
thúc. Vì thế, Tông Huấn này không nằm bên lể Thượng-hội-đồng ; trái lại, nó
diễn đạt Thượng-hội-đồng một cách vừa mạch lạc vừa trung thành ; nó là kết quả
của một công việc tập đoàn, mà giai đoạn chót là thảo ra một bản trình bày có
sự đóng góp của Hội Đồng Văn phòng Tổng-thư-ký của Thượng-hội-đồng và của chính
Văn phòng.
Tông
Huấn này nhằm mục đích khơi dậy và nuôi dưỡng một ý thức rõ nét hơn về ân huệ
và trách nhiệm của tất cả và của từng giáo dân, trong sự hiệp thông và trong sứ
vụ của Giáo Hội.
Những thúc bách hiện tại của thế
giới :
"Sao
các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết ?"
3.
Ý hướng
nền tảng của Thượng-hội-đồng vừa qua, và do đó, hiệu quả quý giá và đáng mong
ước nhất của nó, là đưa giáo dân đến chỗ
lắng nghe Đức Kitô, Đấng gọi họ làm việc trong vườn nho của Ngài,
đồng thời hướng dẫn họ góp phần tích cực, có ý thức và trách nhiệm vào sứ vụ
của Giáo Hội, vào thời điểm vừa huy hoàng
vừa bi thương này của lịch sử, lúc sắp bước vào thiên niên kỷ thứ
ba.
Ngày
nay, trong Giáo Hội cũng như trong thế giới, trong những thực tại xã hội, kinh
tế, chính trị và văn hóa, có những hoàn cảnh mới mẻ đang đòi hỏi, một cách hết
sức đặc biệt, hoạt động của giáo dân. Nếu trước đây thái độ thờ ơ đối với hoạt
động này luôn luôn không thể chấp nhận được, thì ngày nay, thái độ ấy lại càng
đáng khiển trách hơn bao giờ hết. Không ai
được phép ở yên mà không làm gì cả.
Chúng
ta hãy đọc lại dụ ngôn trong Tin Mừng : “Khoảng năm giờ chiều, ông trở ra và
thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ : ‘Sao các anh đứng đây
suốt ngày không làm gì hết ?’. Họ đáp : ‘Vì không ai mướn chúng tôi’. Ông bảo
họ : ‘Cả các anh nữa, vào làm vườn nho cho tôi đi !’” (Mt
20,6-7).
Không
có chỗ cho việc ăn không ngồi rồi, trong khi còn biết bao công việc đang chờ
đợi tất cả chúng ta trong vườn nho của Chúa. “Ông chủ vườn” lập lại còn khẩn
khoản hơn : “Cả các anh nữa, vào làm vườn nho cho tôi đi !”.
Chắc
chắn lời nói của Chúa vẫn vang vọng trong mỗi kitô-hữu, nơi thâm tâm của họ.
Thực vậy, mỗi người đã được đồng hình đồng dạng với Đức Kitô nhờ đức tin và các
bí tích khai tâm Kitô-giáo, cũng được tháp nhập vào Giáo Hội như một chi thể
sống động, và là chủ thể tích cực trong sứ vụ cứu độ của Giáo Hội. Tiếng nói
của Chúa cũng được truyền đạt qua các biến cố của lịch sử Giáo Hội và nhân
loại, như Công Đồng đã nhắc : “Dân Thiên Chúa, nhờ đức tin mà tin rằng mình
được Thánh Thần Thiên Chúa là Đấng bao phủ mặt đất hướng dẫn, cố gắng nhận định
đâu là những dấu chỉ thuộc về sự hiện diện hoặc ý định của Thiên Chúa trong mọi
biến cố, mọi yêu sách và ước vọng mà họ dự phần với những người đương thời.
Thực vậy, đức tin lấy ánh sáng mới mà chiếu soi mọi sự và biểu lộ ý định của
Thiên Chúa về thiên chức toàn vẹn của con người, và do đó hướng dẫn lý trí tới
những giải quyết hoàn toàn nhân bản”[6].
Như
thế, phải nhìn thẳng vào thế giới này, thế giới của chúng ta, cùng với những
giá trị và những vấn đề của nó, những ưu tư và hy vọng, những thành đạt và thất
bại của nó : một thế giới mà những điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị và văn
hóa đặt ra những vấn đề và khó khăn còn trầm trọng hơn những vấn đề được Công
Đồng trình bày trong hiến chế mục vụ Vui mừng và Hy vọng.[7]
Dù sao, đó vẫn là vườn nho, đó vẫn là mảnh đất nơi các giáo dân được mời gọi
sống sứ vụ của mình. Đức Giêsu mong muốn rằng các giáo dân, cũng như tất cả các
môn đệ của Ngài, phải trở thành muối đất và ánh sáng trần gian (x. Mt
5,13-14).
Nhưng
đâu là khuôn mặt hiện nay của
“trái đất” và của “trần gian”, mà các kitô-hữu phải trở thành “muối” và “ánh
sáng” ?
Có
một sự khác biệt lớn lao về các hoàn cảnh và những cách đặt vấn đề trong thế
giới ngày nay, một thế giới mà ngoài ra còn có đặc tính là thay đổi mau lẹ. Vì
vậy, tuyệt đối không được tổng quát hóa và đơn giản hóa quá đáng. Tuy thế, vẫn
có thể ghi nhận một số khuynh hướng hiện có
trong xã hội hiện đại. Cũng như trong cánh đồng Phúc Âm, cỏ lùng và
hạt giống tốt cùng mọc lên, thì trong lịch sử, là một sân khấu hằng ngày công
diễn sự tự do của con người, cũng thế, sự thiện và sự ác, bất công và công lý,
lo âu và hy vọng vẫn sóng đôi bên nhau, đôi khi quấn chặt lấy nhau.
Khuynh hướng duy-thế-tục và nhu
cầu tôn giáo
4.
Làm sao
không nghĩ đến sự phổ biến của thái độ dửng
dưng tôn giáo và thuyết vô thần
dưới nhiều hình thức rất khác nhau, đặc biệt dưới hình thức có lẽ đang phổ biến
nhất hiện nay, là khuynh hướng duy thế tục
? Say sưa vì những cuộc chinh phục kỳ diệu của một sự phát triển khoa học kỹ
thuật mà không gì chặn đứng được, và nhất là bị mê hoặc bởi cám dỗ muốn bằng
Thiên Chúa (x. St 3,5), qua
việc sử dụng tự do cách vô giới hạn, con người tự chặt đứ cội rễ tôn giáo sâu
xa nhất của họ : quên lãng Thiên Chúa, họ nghĩ rằng Thiên Chúa chẳng có ý nghĩa
gì trong cuộc sống của họ, họ từ chối Thiên Chúa để rồi sấp mình thờ lạy những
“ngẫu tượng” đủ loại.
Thực
thế, khuynh hướng duy-thế-tục hiện nay là một hiện tượng rất trầm trọng : nó
không chỉ tác động tới các cá nhân, nhưng một cách nào đó, tác động tới nhiều
tòan thể cộng đồng, như Công Đồng đã ghi nhận : “Số người lìa xa Thiên Chúa
trong cách sống thực tế càng ngày càng đông”[8].
Chính tôi cũng thường nhắc lại : hiện
tượng tục hóa đã tác động nơi các dân tộc vốn là tín hữu từ thời xa xưa, và
hiện tượng này đòi hỏi ngay một công cuộc tái phúc âm hóa.
Tuy
vậy, khát vọng và nhu cầu tôn giáo
không thể hoàn toàn mai một. Khi có đủ can đảm đương đầu với những vấn đề trầm
trọng nhất của cuộc sống con người, nhất là vấn đề ý nghĩa cuộc sống, đau khổ
và cái chết, thì lương tâm của con người không thể ngần ngại nhận lấy cho mình
lời chân lý đã được thánh Augustinô kêu lên : “Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng chúng
con cho Chúa, và tâm hồn chúng con luôn khắc khỏai cho đến khi được nghỉ yên
trong Chúa”[9]. Vì
vậy, dưới nhiều hình thức ngày càng lớn và sống động, thế giới hôm nay làm
chứng con người hướng tới một cái nhìn thiêng liêng và siêu việt về cuộc sống,
làm chứng về sự thức tỉnh iệc tìm kiếm tôn giáo, về sự trở lại với ý thức về sự
thiêng thánh và về việc cầu nguyện, làm chứng về đòi hỏi được tự do kêu cầu
Danh Chúa.
Nhân vị con người :
phẩm giá
của nó bị chà đạp và được tán dương
5.
Chúng ta
hãy nghĩ thêm đến vô số xúc phạm
mà phẩm giá của nhân vị con người
đang phải chịu hôm nay. một khi không được nhìn nhận và yêu mến theo phẩm giá
của mình là hình ảnh sống động của Thiên Chúa (x. St 1,26), con người làm mồi cho những hình thức nhục nhã và lệch
lạc nhất là “biến họ thành dụng cụ”, thành nô lệ cho thế lực mạnh hơn một cách
khốn khổ. “Thế lực mạnh hơn” này có thể mang nhiều bộ mặt khác nhau : ‘ý thức
hệ, quyền lực kinh tế, những hệ thống chính trị phi nhân, hình thức kỹ trị khoa
học , sự xâm nhập của các “phương tiện truyền thông – xã hội”. Một lần nữa,
chúng ta đang đối diện với một quần chúng là những anh chị em của chúng ta, bị
xúc phạm trong những quyền căn bản, đôi khi là hậu quả của thái độ dung túng
quá đáng, thậm chí của sự bất công rành rành của một số luật dân sự : quyền
được sống và toàn vẹn thân thể, quyền có nhà ở và việc làm, quyền có gia đình
và sinh sản có trách nhiệm, quyền được tham dự vào sinh hoạt công cộng và chính
trị, quyền được tự do lương tâm và tuyên xưng niềm tin tôn giáo của mình.
Ai
có thể thống kê được số những trẻ em không được chào đời, vì chúng đã bị giết
hại từ trong lòng mẹ, số các trẻ em bị bỏ rơi, hay bị cha mẹ ngược đãi, số các
trẻ em lớn lên không được yêu thương và giáo dục ? Trong một số quốc gia, có
những tập thể dân cư không có nhà ở cũng không có việc làm, thiếu những phương
tiện cần thiết để sống cho ra con người. Có những xóm nghèo khổ và cùng khốn
thật kinh khủng, cả về thể chất lẫn tinh thần, từ đây mọc lên quanh các đô thị
lớn và gây tác hại trầm trọng đến toàn bộ những nhóm người.
Thế
nhưng, tính cách thiêng thánh của con người
không thể bị tiêu diệt, mặc dù rất thường bị khinh miệt và xúc phạm : nền tảng
vững chắc của nó là Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo và là Cha ; vì vậy tính cách
thiêng thánh của con người vẫn luôn đòi phải được tôn trọng.
Từ
đó mà ý thức về nhân phẩm của mọi người
ngày càng được phổ biến rộng rãi và được khẳng định mạnh mẽ. Từ nay, một trào
lựu tốt đẹp đang đi đến và tràn ngập hết mọi dân tộc trên trái đất ; họ đã ý
thức hơn về phẩm giá con người : con người hòan tòan không phải là một “sự vật”
hay một “đồ vật” mà người ta có thể sử dụng, nhưng luôn luôn và chỉ là một “chủ
thể” có ý thức và tự do, được mời gọi sống một cách có trách nhiệm trong xã hội
và lịch sử, hướng về những giá trị tinh thần và tôn giáo.
Người
ta đã khẳng định rằng thời đại chúng ta là thời đại của những “chủ thuyết nhân
bản” : trong đó một số nhuốm khuynh hướng vô thần và thế tục, nên, mmột cách
nghịch lý, lại đi đến chỗ hạ giá và tiêu diệt con người ; ngược lại, một số
khác đề cao con người đến độ đưa tới những hình thức tôn thờ ngẫu tượng thực sự
; sau cùng, một số khác đi đúng sự thật, nhìn nhận sự cao cả và cùng khốn của
con người, và làm nổi bật, nâng đỡ và ủng hộ phẩm giá toàn diện của con người.
Ta
có thể thấy được một dấu chỉ và một kết quả của những trào lưu nhân bản này
trong một nhu cầu đang lớn mạnh là nhu cầu tham
gia. Rõ ràng đây là một trong những nét nổi bật của nhân loại hiện
nay, một “dấu chỉ thời đại” đích thực đang chín muồi trong nhiều lãnh vực và
theo nhiều hướng khác nhau, đặc biệt trong những vấn đề liên quan đến phụ nữ và
giới trẻ, hướng tới đời sống gia đình và học đường, và cả trong lãnh vực văn
hóa, kinh tế, xã hội và chính trị. Đảm nhận một vai trò, sáng tạo cách nào đó
một nền văn hóa nhân bản mới, là một đòi hỏi, vừa có tính cách phổ quát vừa có
tính cách cá nhân.[10]
Những tình huống xung đột và hòa
bình
6.
Sau
cùng, chúng ta không thể quên một hiện tượng khác ghi dấu nhân loại đương đại :
hơn bất cứ thời điểm nào khác của lịch sử, nhân loại ngày nay bị tác động và
rung chuyển bởi những tình huống xung đột. Đây là một hiện tượng đa dạng, phân
biệt với sự đa dạng hợp pháp của các não trạng và các sáng kiến, và biểu lộ qua
sự đối kháng tệ hại giữa các cá nhân, các nhóm người, các tầng lớp, các quốc
gia và các khối quốc gia. Sự đối kháng này không mang những hình thức bạo hành,
khủng bố và chiến tranh. Một lần nữa, và trong những phạm vi rất lớn, một số
phần của nhân loại ngày nay đang tái diễn kinh nghiệm điên cuồng của việc xây
dựng “tháp Babel” (x. St 11,9), vì muốn phô trương sự “tòan năng” của mình ; kinh nghiệm
này tạo ra hỗn loạn, đấu tranh, tan rã và áp bức. Vì thế, gia đình nhân loại bị
đảo lộn và xâu xá một cách thê thảm.
Bù
lại, người ta thấy khát vọng mạnh mẽ không gì dẹp nổi của từng người và của các
dân tộc về thiện ích và giá của hòa bình
trong công lý. Nơi con người thời nay, mối phúc “Phúc thay ai xây dựng hòa
bình” (Mt 5,9) có một
âm vang mới mẻ và đầy ý nghĩa : ngày nay, có nguyên những thế hệ đang sống,
chịu đựng và làm việc để cho hòa bình và công lý hiển trị. Việc tham gia ngày càng gia tăng của các cá
nhân và các nhóm vào sinh họat xã hội là đường lối càng lúc càng được sử dụng
hôm nay, ngõ hầu hòa bình trong ước mơ được trở thành hiện thực. Trên con đường
này, chúng ta gặp thấy một số đông giáo dân quảng đãi dấn thân trong những lãnh
vực xã hội hay chính trị, dưới nhiều hình thức rất khác nhau, hoặc đứng trong
các tổ chức, hoặc như những cộng tác viên thiện chí, và phục vụ các người hèn
kém nhất.
Đức Giêsu-Kitô, niềm hy vọng của
nhân loại
7.
Trên đây
là cánh đồng bao la trải ra trước mắt những người thợ được “Ông chủ” sai đến
làm việc trong vườn nho.
Trên
cánh đồng này, Giáo Hội hiện diện và hành động, mà Giáo Hội là tất cả chúng ta,
chủ chăn và tín hữu, linh mục, tu sĩ và giáo dân. Các tình huống mà chúng ta
vừa nhắc đến có liên hệ đến Giáo Hội : qua những tình huống đó, Giáo Hội cảm
thấy mình phần nào bị chi phối ; tuy nhiên, Giáo Hội không bị đè bẹp cũng không
bị quật ngã, bởi vì Thánh Thần, linh hồn của Giáo Hội, vẫn luôn nâng đỡ Giáo
Hội trong sứ vụ của mình.
Giáo
Hội biết rằng những nỗ lực của nhân loại hướng đến sự hiệp thông và tham gia,
mặc dầu có những khó khăn, những trì trệ, những mâu thuẫn đủ loại, do những
giới hạn của con người, do tội lỗi và Thần Dữ, vẫn được giải đáp hoàn toàn nhờ
sự can thiệp của Đức Giêsu-Kitô, Đấng Cứu Chuộc con người và thế giới.
Giáo
Hội biết rõ mình đã được Chúa sai đến như “dấu chỉ và phương tiện kết hiệp mật
thiết với Thiên Chúa và hiệp nhất tòan thể nhân loại”[11].
Vì
vậy, bất chấp chuyện gì đi nữa, nhân loại vẫn có thể hy vọng và phải hy vọng : chính Đức Giêsu-Kitô, Phúc Âm sống động và
có ngôi vị, là “Tin Vui” hoàn toàn mới mẻ,
đem lại niềm vui mà Giáo Hội loan báo cho tất cả chúng ta mỗi ngày
và làm chứng cho tất cả mọi người.
Trong việc loan báo và làm chứng này, các giáo dân có một vị trí độc đáo và không thể thay thế : nhờ họ, Giáo Hội Chúa Kitô hiện diện trong mọi lãnh vực rất khác nhau của thế giới, như là dấu chỉ và nguồn mạch hy vọng và tình yêu.
[1]
CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý về
Giáo Hội, Lumen gentium, s. 48
[2]
Thánh Grêgôriô Cả, Bài giảng về Phúc
Âm I, XIX,2
[3]
CĐ Vatican II, Sắc lệnh về Tông Đồ
giáo dân, Apostolicam actuositatem,
s. 33
[4]
Đức Gioan-Phaolô II, Bài giảng trong lễ đồng tế Bế mạc Thượng-hội-đồng
Giám Mục khóa VII, 30/10/1987
[5]
x. Đề nghị 1
[6]
CĐ Vatican II, Hiến chế Mục vụ về
Giáo Hội trong thế giới hôm nay, Gaudium et
spes, s. 11
[7]
Các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng khóa
ngoại lệ năm 1985, sau khi khẳng định “tầm mức quan trọng và tính hiện đại lớn
lao của Hiến chế Vui mừng và Hy vọng” đã thêm : “Tuy nhiên, chúng ta cũng phải
đồng thời nhận thấy rằng các dấu chỉ trong thời đại chúng ta có phần nào khác
với những dấu chỉ thời Công Đồng, bao gồm những vấn đề và những âu lo còn to
lớn hơn nữa. Thực vậy, khắp nơi trong thế giới, không ngừng gia tăng sự đói
khổ, đàn áp, bất công, chiến tranh, khổ đau, khủng bố và nhiều hình thức bạo
lực đủ loại khác nhau” (Giáo Hội, dưới quyền
Ngôi Lời Thiên Chúa, cử hành những mầu nhiệm của Đức Kitô để thế giới được cứu
độ. Bản phúc trình tổng kết, II, D,1)
[8]
CĐ Vatican II, Hiến chế Mục vụ về
Giáo Hội trong thế giới hôm nay, Gaudium et
spes, s. 7
[9]
Thánh Augustinô, Tư thuật I, 1
[10]
x. Tài
liệu làm việc, “Ơn gọi và sứ mệnh người giáo dân trong Giáo Hội và
thế giới hai mươi năm sau Công Đồng Vatican II”, s. 5–10
[11]
CĐ. Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo
Hội, s. 1