TINH THẦN THÁNH SIMON PHAN ĐẮC HÒA
và
PHILIPPHÊ PHAN VĂM MINH
Simon Phan Đắc Hòa sinh tại Huế, tên cũ là Phan
đắc Thu. Cha là Phan đắc Thục làm Lại Bộ Thượng Thư trong triều vua; Mẹ là Đóa,
vợ lẽ của quan thượng thư. Sau khi cha chết, gia đình trở nên nghèo túng, nên
mẹ Ngài phải dẫn hai chị em về ở với bà ngoại tại Lương Kim Quảng Trị. Sau đó
lại rời chỗ về làng Nhu Lý nương nhờ một gia đình Công Giáo đạo hạnh giúp đỡ.
Trong thời gian này cậu Hòa được dạy giáo lý và được rửa tội năm 12 tuổi.
Cậu Hòa khá thông minh và có tư cách nên được
Cha Nhân gửi vào chủng viện An Ninh. Nhưng về sau bề trên cậu là con vợ hai,
tức là có ngăn trở không làm linh mục được, nên đã cho về. Bỏ chủng viện về lúc
đã 30 tuổi, Phan đắc Hòa ở trọ học thuốc tại nhà y sĩ Phương, và về sau lập gia
đình với cô Yên con gái ông Phương, và cũng trở thành thày thuốc.
Ông Bà Phan Đắc Hòa có tất cả 12 người con,
trong đó có ba người làm nữ tu. Ông thường dẫn con cái đi lễ và xưng tội. Ban
tối Ông đọc sách đạo cho cả nhà nghe. Ông rất thương người nghèo, thường nhường
cả phần ăn cho họ nữa. Với lòng đạo đức và nhiệt thành, Ông được cử làm thủ chỉ
làng Nhu Lý, và làm chánh trương xứ đạo.
Khi vua Minh Mạng ra lệnh bắt tất cả các giáo
sĩ ngoại quốc, Ông Hòa đã chẳng sợ nguy hiểm mà tìm cách giúp đỡ giấu ẩn. Ông
xây tường có hai lớp để các cha ẩn trốn trong nhà. Cha Y (De la Motte) đã trốn
ở nhà Ngài một thời gian, nhưng rồi dân chúng nghe biết đồn thổi, khiến ông
phải xếp đặt đưa cha Y sang ẩn trốn tại làng An Ninh. Nhưng trên đường đi thì
Ngài và cha Y bị chận bắt.
Trong khi bị giam tù con cái thường lui tới
viếng thăm và được Ngài khuyên:
"Chúng con hãy về giúp đỡ mẹ, chị em giúp
đỡ lẫn nhau. Còn số phận Cha chắc không tránh khỏi cái chết. Các con hãy vâng
lời mẹ, săn sóc cửa nhà tử tế, vì cha không thể lo lắng gì hơn được nữa".
Khi làm nghề thuốc và dạy thuốc, Ngài được các
học trò rất thương mến, và Ngài cũng coi họ như con vậy.
Các quan đưa đòn tâm lý nói về chuyện thương vợ
con cho Ngài mủi lòng mà bỏ đạo. Nhưng Ngài quả quyết:
"Dầu tôi phải mất vợ mất con, mất hết của
cải và mạng sống nữa, tôi cũng không bao giờ bỏ Chúa tôi thờ".
Ngài đã bị tra tấn 3 lần, mỗi lần 40 roi, và bị
kìm kẹp nữa.
Một hôm bà Hòa bế con đến thăm, Ông nói:
"Hãy can đảm, đừng buồn vì số phận tôi
phải chịu. Cái chết của tôi làm vinh danh Chúa. Hãy khuyên bảo con cái biết
sống theo ý Chúa".
Sau nhiều lần tra tấn mà không lay chuyển được
Ngài, các quan đã làm cho Ngài phải chém đầu và bêu ba ngày cho người khác
khiếp sợ, vì tội chứa chấp đạo trưởng ngoại quốc.
Ngày 12.12.1840 Ngài bị chém đầu, tên lý hình
tung đầu Ngài lên cho mọi người thấy và giao cho làng Đốc Sơ ngoại đạo bêu đầu
ba ngày. Xác Ngài được giáo dân đưa về an táng tại Nhu Lý Quảng Trị.
THÁNH PHILIPPHÊ PHAN VĂN MINH.
Philipphê Phan Văn Minh sinh năm 1815 tại Cái
Mơn tỉnh Vĩnh Long, con Ông Đaminh Phan văn Đức và Bà Anna Tiếu. ông Bà Đức làm
trùm họ và có tất cả 14 người con. Phan văn Minh là con thứ 12. Cha mẹ chết sớm
nên cậu Minh phải ở với chị cả. Năm 13 tuổi cậu được Đức Cha Taberd gửi vào
chủng viện Lái Thiêu. Rồi khi lên Đại Chủng Viện thì được gửi sang Penang là
chủng viện của vùng Đông Nam Á thời đó. Thầy về nước và chịu chức linh mục tại
Huế năm 1846 lúc 31 tuổi. Ngài là một linh mục thông minh. Tên tuổi Ngài gắn
liền với cuốn tự điển Việt-Latinh cùng với Đức Cha Taberd.
Trong thời kỳ bắt đạo, Đức Cha phải trốn ẩn nên
đã ủy thác cho cha Minh được quyền ban phép Thêm Sức. Ngài đã phải vất vả đi
nhiều họ đạo giúp giáo dân thêm mạnh mẽ trong đức tin. Cha Minh có lòng sùng
kính Đức Mẹ cách đặc biệt, và luôn cổ võ ơn gọi đi tu tiếp nối công việc tông
đồ của Chúa. Cha nuôi con thiêng liêng cho đi tu và khuyên phải siêng năng cầu
nguyện cùng Đức Mẹ và ra sức luyện tập các nhân đức hầu đáng được Chúa gọi: "Hãy
siêng năng cầu nguyện cùng Đức Mẹ và ra sức luyện tập các nhân đức hầu Chúa gọi
nối tiếp công việc của cha."
Vào cuối năm 1852, lệnh cấm đạo trở nên gắt gao, ngài phải vâng
lệnh Bề Trên, đến trú ẩn tại họ Mặc Bắc, nhưng lại được lãnh triều thiên tử
đạo. Nguyên lúc ấy, có bếp Nhẫn say mê cờ bạc rượu chè, vì hy vọng tiền thưởng,
nên đã đi báo quan đem quân về bắt cha Phêrô Lựu, chánh sở Mặc Bắc. Không gặp
cha Phêrô Lựu nhưng quan quân lại bắt được cha Minh trong đêm 25/02/1853, cùng
với chủ nhà cho trú ẩn là ông trùm Giuse Lựu, và một số giáo dân nữa. Tất cả bị
điệu về Vĩnh Long.
Trong ngục, ngài luôn hãnh diện vì là linh mục và đầy lòng thương
mến các bạn tù, dù chịu nhiều hình khổ và nhiều điều xỉ nhục. Vì không lay
chuyển nổi đức tin sắt đá của ngài, các quan đã lên án "phát lưu ra
Bắc" và đệ án vào kinh xin châu phê. Vua Tự Ðức không nghe, truyền phải xử
tử.
Ngày 03/7/1853, Cha Minh bị điệu ra pháp
trường, mặc áo dài và cầm tràng hạt trong tay vừa đi vừa làn chuỗi. Cha xin
được nửa giờ cầu nguyện, rồi trối lại cỗ tràng hạt cho ông Phương đang theo
giúp Cha. Ngài cầu nguyện lớn tiếng: “Lạy Mẹ, xin cầu cho con trong giờ lâm
chung nguy hiểm này. Lạy Chúa xin thương đến con cùng. Xin Chúa ban cho con
mạnh sức chịu cho sáng danh Chúa”.
Vị chủ chăn trước khi lìa đoàn chiên đã không
trối lại kho vàng kho bạc nào, cũng không cấp bằng ân thưởng chi cả, mà trao
lại chính người Mẹ đã cả đời yêu thương săn sóc. Cũng như Chúa Giêsu lúc trước
khi tắt thở trên Thánh Giá đã trao cho môn đệ Gioan: “Này là Mẹ của con”, Ngài đã
trối lại cho con chiên báu vật ngài quí trọng trên đời là tràng chuỗi Mân Côi,
là 15 bí quyết của người Mẹ đã bước đi trên cuộc hành trình đức tin qua 15
chặng để đạt nguồn sung mãn đầy ơn phúc của Chúa. …
Đáng lẽ theo bản án thì đầu cha phải bị vất xuống
sông, nhưng sau khi chém xong, ông Phương đã xin chuộc đầu Cha khâu lại với xác
và rước về táng tại Cái Mơn trong nền nhà thờ cũ. Chúa đã cho vị tử đạo làm
nhiều dấu lạ là những đồ vật liên quan đến Ngài bỗng dưng tỏa sáng.
Cha Thánh Minh tử đạo lúc 38 tuổi, là vị tiên
khởi tử đạo xuất thân từ chủng viện Penang. Tại sân trường và trong nhà nguyện
vẫn còn tượng Ngài.