Cuộc nói chuyện
với ĐHY Poupard về sự vô tín trên thế giới
ĐHY Poupard, chủ
tịch Uỷ Ban Giáo Hoàng về Văn Hoá, đã nhận xét rằng sự vô tín không còn là một
hiện tượng giới hạn trong một thiểu số nữa nhưng trở thành một hiện tượng quần
chúng; ba nước mà người ta thấy có nhiều người vô tín nhất là Pháp, Bỉ và Hà
Lan.
Trong cuộc nói
chuyện với thông tấn xã Zenit, ĐHY phác hoạ bản đồ những nơi vô tín trên thế
giới. Đây là đề tài của Hội nghị của Uỷ Ban Giáo Hoàng về Văn Hoá trong những
ngày từ 11 đến 13 tháng ba vừa qua.
Ngài giải
thích : « Nhiều người nói đến sự trở lại với điều linh thiêng nhưng
họ không xác định rằng điều đó có tính cách tôn giáo yếu, không dựa vào một
Thượng Đế có chủ thể, một điều có nhiều
xúc cảm hơn là học thuyết. Chúng ta đang chứng kiến sự « phi chủ
thể » (dépersonalisation) của Thượng Đế. Có những người tự xưng là Công
Giáo nhưng lại không theo sứ điệp của Giáo Hội Công Giáo. Tính cách tôn giáo
mới này không trùng hợp với sự trở lại của niềm tin và là một thách thức đối
với Kitô Giáo ».
Ngài giải thích
rằng sự vô thần tranh đấu suy giảm trên thế giới nhưng lại có hiện tượng vô tín
thực tiễn đang phát triển trong những môi trường văn hoá đậm nét tục hoá. Một
hình thức văn hoá mà ngài gọi là tân đa thần (néo-paganisme) chủ trương tôn thờ
những của cải vật chất, mang tính cách tôn giáo phiếm thần (panthéisme :
coi mọi sự là Thượng Đế), phù hợp với những lý thuyết vũ trụ như phong trào
Thời Mới (New Age). Rõ ràng là chúng ta phải phân tích hiện tượng này, tiêu biểu
cho những văn hoá tục hoá của Tây Phương.
ĐHY Poupard : Tình cảnh khác nhau theo quốc gia và theo lục địa.
Tại Phi Châu, sự vô
tín liên quan đến những người có nguồn gốc Âu Châu và rất ảnh hưởng tại các
thành phố lớn. Trong một nước như Nam Phi, có đến hơn 6 000 nhà thờ khác nhau,
thật khó nói đến sự vô tín.
Tại Hoa Kỳ có 1%
những người tuyên bố vô thần, 15% những người « không có Giáo Hội ».
Phần đông người Hoa Kỳ cầu nguyện, chỉ 1% tuyên bố chưa bao giờ cầu nguyện. Tại
Châu Mỹ La Tinh, Cuba là nước duy nhất còn một chính phủ chính thức vô thần. Sự
kiện sau 30 năm được giáo dục theo kiểu vô thần, 86% người Cuba tự coi mình có
niềm tin là điều rất có ý nghĩa mặc dù những người sống đạo chỉ có 15%. Mễ Tây
Cơ là một trường hợp đặc biệt, quốc gia này đã có một chế độ kiểm soát bởi
những nhóm chống lại hàng giáo phẩm trong 70 năm trời, nhưng 90% người Mễ Tây
Cơ là người công giáo và 100% có lòng tôn sùng Đức Mẹ Guadalupe. Điều này chứng
tỏ chiều sâu của cội rễ tôn giáo của quần chúng. Tại Trung Mỹ, lòng tôn sùng
của người dân đủ sức mạnh để chống lại những cám dỗ của lối sống tục hoá.
Tại Ba Tây, nơi có
đông đảo người công giáo nhất thế giới, có sự chuyển tiếp của những người có
đạo từ Giáo Hội Công Giáo sang những nhóm Kitô Giáo khác. Trong những năm 50,
93,5% dân số là người công giáo. Hiện nay là 73,8%. Trong thời gian này, những
người Kitô Giáo khác từ 0,5% tăng lên đến 15%.
Tại Argentine, 4%
dân số tuyên bố vô thần và 12% tuyên bố theo bất khả tri thuyết (agnosticisme).
Tại Á Châu, tình
trạng rất khác biệt như một giám mục á châu đã nói : « không có hiện
tượng vô tín bởi vì ở đây không có niềm tin nào ». Thí dụ như tại Nhật
đúng là một siêu thị về những tôn giáo. Nếu người ta tổng kết hết những người
theo Thần Đạo (shintoisme), Đạo Lão (taoisme), Phật Giáo và Kitô Giáo thì người
ta đạt tới 125% bởi vì nhiều người khẳng định thuộc về nhiều tôn giáo. Tại Phi
Luật Tân, quốc gia Á Châu duy nhất có phần đông là người Kitô Giáo, 82,9% là
người công giáo, 4,57% là người hồi giáo và chỉ có 0,3% tuyên bố không theo tôn
giáo nào. Hàn Quốc là một nước đáng chú ý với một số người trở lại đạo công
giáo đông nhất.
Nhưng ở đâu người ta thấy hiện
tượng vô tín nhiều ?
ĐHY Poupard : Điều đau buồn đến từ Âu Châu với nhiều khác biệt
quan trọng giữa các vùng Địa Trung Hải, Trung Âu và Bắc Âu. Tại Ý, 4% tuyên bố
vô thần, 14% không coi trọng, phần đông có đạo dù sự tham gia vào đời sống Giáo
Hội không đều đặn.
Tại Tây Ban Nha, một tiến trình huỷ hoại văn hoá và tôn giáo đang hoành hành
với sự ủng hộ của những chính quyền có khuynh hướng xã hội.
Tại Tây Âu, ba nước có đông dân cư tuyên bố không có đạo
nhất là Bỉ với 37%, Pháp với 43% và Hà Lan với 54%. Pháp là quốc gia có số
người tuyên bố vô thần nhiều nhất : 14%.
Tại Anh quốc, 77% tuyên bố là Kitô Giáo, những người theo
Anh giáo là phần đông nhưng nếu xét theo sự sống đạo, người công giáo đông hơn.
14% tuyên bố không có tôn giáo nào.
Trong những nước Bắc Âu (Islande, Đan Mạch, Thuỵ Điển, Na
Uy), người công giáo là một thiểu số nhưng gia tăng với những di dân gốc Phi
Luật Tân và Đại Hàn. Tại Đan Mạch, 11% tuyên bố không theo tôn giáo nào, 11,6%
tại Na Uy, 12,7% tại Phần Lan. Những nước này vừa có hiện tượng tục hoá vừa có
hiện tượng tôn trọng thiên nhiên bắt nguồn từ những nguyên do thế tục coi thiên
nhiên là điều linh thiêng.
Tại Đức, 60% người Đông Đức tuyên bố không theo tôn giáo
nào và con số người Tây Đức vô tín chỉ có 15%, nhất là trong những thành phố
lớn.
Tại Ba Lan, rất ít có người vô tín nhưng chủ nghĩa vật
chất của xã hội tiêu thụ đang thay thế chủ nghĩa vật chất mácxít và đó là ưu tư
lớn.
Tại Hongrie, chỉ có 887 người tuyên bố vô thần trên dân số
10 triệu người, nhưng phần đông sống đạo theo cách riêng của mình. Tại Cộng Hoà
Tchèque, nửa dân số tuyên bố vô thần hay không có đạo, nhưng nước Slovaquie thì
theo Công Giáo.
Trong những nước phần đông Hồi Giáo thì những thống kê
không đáng tin mấy, bởi vì nếu một người dù vô tín, họ không thể nói ra điều
đó.
Thưa ĐHY, kết luận của nghiên
cứu này là gì ?
ĐHY Poupard : sự vô thần tranh đấu suy giảm. Sự vô tín không tăng trên thế
giới, trừ trong những nước có khuôn mẫu văn hoá tục hoá. Sự thờ ơ tôn giáo dưới
dạng vô thần thực tiễn gia tăng. Dưới khía cạnh mục vụ, điều đáng lo nhất là sự
vô thần (athéisme) và vô tín (non croyance) cũng phát triển nơi nữ giới. Từ bao
ngàn năm qua, niềm tin được thông truyền trong gia đình qua người mẹ, nhưng
hiện nay có một khúc gẫy. Và sự kiện mới là con người thờ ơ xuất hiện :
một người có thể tin mà không có lệ thuộc nào và lệ thuộc mà không thực hành.
Con số người tuyên bố theo đạo nhưng không tham gia trong Giáo Hội và tin vào
một số những thực hành gần như ảo thuật gia tăng.
Theo ĐHY, có những dấu chỉ hy vọng
trong Giáo Hội Công Giáo không ?
ĐHY Poupard : Điều đó là chắc chắn. Tôi nghĩ đến những phong trào tôn giáo đã
lớn mạnh trên thế giới từ một phần tư thế kỷ cả về con số lẫn sự thâm sâu tinh
thần. Đó là một phản ứng sống qua Chúa Thánh Thần để chống lại nền văn hoá tục
hoá. Trong một lúc mà dường như có sự tan rã, những phong trào này cho thấy một
ý nghĩa mạnh về nhóm và chứng tỏ một tinh thần tôn giáo ăn rễ sâu trong sự gặp
gỡ riêng tư và qua Giáo Hội với Đức Kitô : qua những bí tích của niềm tin
cũng như trong lời cầu nguyện, trong nghi thức, trong việc cử hành thánh lễ,
tất cả trở thành sự tham dự vào mầu nhiệm của Thiên Chúa sống động.
Lang Biang dịch