DIỄN TIẾN
CỦA MỘT ÁN PHONG CHÂN PHƯỚC (Á THÁNH) VÀ PHONG THÁNH
THEO LUẬT HIỆN
HÀNH CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO
Ngày 02.04.07, giai đoạn đầu (giai đoạn
giáo phận) của án phong cho cố giáo chủ Gio-an Phao-lô II đã kết thúc long
trọng trong một buổi lễ tại thánh đường Lateran ở Rô-ma, sau gần hai năm tiến
hành. Tiến trình này rồi sẽ được tiếp tục ra sao? Nó sẽ trải qua những chặng
đường nào nữa và tới bao giờ mới có thể kết thúc? Cũng trong dịp này, vị đại
diện của bên đứng đơn (giáo phận Rô-ma) cho hay, họ đã nhận được nhiều chứng từ
phép lạ gởi tới, nhưng không thể đưa tất cả vào hồ sơ, vì như thế việc kết thúc
án sẽ kéo dài thêm rất lâu. Tại sao?
Ngày19.12.09 vừa qua, giáo chủ Biển-Đức XVI lại ra sắc lệnh
công nhận tôi tớ Chúa Gio-an Phao-lô và một số vị khác lên hàng „Đấng đáng
kính“ (Venerabilis). Điều này có nghĩa gì?
Để giúp độc giả hiểu thêm về lãnh vực
này, chúng tôi gởi tới tài liệu dưới đây, phần lớn viết theo tác giả Ulrich
Nersinger trên Zenit trang Đức ngữ ngày 13.03.07.
Ngày
25.01.1983 giáo chủ Gio-an Phao-lô II đã ban hành Hiến chế „Divinus
perfectionis Magister“ quy định lại tiến trình tuyên phong Á thánh và Thánh
trong Giáo hội. Cùng với hiến chế, một số quy định chi tiết khác cũng được ban
hành cùng lúc hoặc ít lâu sau đó. Theo các văn kiện này, thời gian tiến hành
(chờ đợi và điều tra) được rút ngắn lại, diễn tiến phải được tiến hành một cách
khoa học hơn, và nhất là vai trò của các giám mục địa phương được nâng lên đúng
với tầm nhìn của công đồng Vatican II.
Từ nay, các
giám mục hoặc những vị tương đương ở cấp địa phương là những người có quyền và
trách nhiệm đầu tiên trong tiến trình này.
GIAI ĐOẠN I: CẤP GIÁM MỤCC ĐỊA PHƯƠNG
Muốn đưa một
gương sống đạo lên bàn thánh, kẻ đứng đơn (aktor) trước hết phải trình án/ trường
hợp (causa) đó lên cho vị bản quyền tại địa phương (thường là giám mục, đại
diện tông toà hay bề trên tỉnh dòng v.v.) nơi ứng viên đó mất (chứ không phải
nơi ứng viên sinh ra). Kẻ đứng đơn có thể là một tín hữu bình thường, một định
chế công giáo (giáo xứ, giáo phận, dòng tu...) hay một hội đoàn đã được giáo
quyền chuẩn nhận. Điều quan trọng là vị bản quyền phải xem người đứng đơn có đủ
tài chánh cho tiến trình xét duyệt này không (vì thế, các pháp nhân như giáo
xứ, giáo phận, hội đoàn, dòng tu... dễ được ưu tiên chấp nhận hơn).
Đơn có thể
đặt sớm nhất là 5 năm sau vị gương mẫu đó qua đời, nếu không có gì đặc biệt thì
phải sau 10 năm trở lên. Thời gian tối thiểu này có thể được miễn, nếu vị giáo
chủ đương kim muốn. Trường hợp mẹ Tê-rê-xa ở Calcutta và giáo chủ Gio-an
Phao-lô II là những trường hợp được miễn điển hình.
Suốt thời
gian điều tra và thẩm định, kẻ đứng đơn phải cử ra một vị uỷ quyền (postulator)
đại diện cho mình. Vị này có thể là một giáo dân, tu sĩ hay giáo sĩ, nhưng phải
đủ khả năng về thần học và giáo luật, và phải nắm được thủ tục pháp lí của Bộ phong thánh (điểm này có thể tới học hỏi
nơi Bộ).
Trong giai
đoạn tiền điều tra, giám mục địa phương yêu cầu người uỷ quyền nộp một bản lí
lịch về án liên hệ, trong đó trình bày chi tiết các nhân đức gương mẫu xứng đáng
và cho biết các sách hoặc bài viết đã được phổ biến của người tôi tớ Chúa đó kèm
theo một danh sách các nhân chứng. Án của giáo chủ Gio-an Phao-lô II có tới 130
nhân chứng.
Bước thứ hai,
giám mục thông báo sự kiện này ra cho tín hữu giáo phận mình và yêu cầu mọi
người, ai biết gì về cuộc đời và cái chết của nhân vật liên hệ thì cho hay,
hoặc ai còn giữ tài liệu nào của vị đó thì cho giám mục biết.
Giám mục địa
phương cũng thông báo sự kiện cho giám mục các giáo phận lân cận và hỏi họ xem
đề nghị phong chân phước hay thánh này có nên và cần thiết không. Tất cả những
sách vở và tài liệu đã được xuất bản của vị tôi tớ được giám mục chuyển cho các
nhà thần học (do ngài cử) điều nghiên, đánh giá. Nếu nhóm này đánh giá thuận
lợi, giám mục sẽ ra lệnh tập trung và cho đánh giá cả những tài liệu không
chính thức cùa vị đáng kính (nhật kí, thư từ...).
Sau đó, giám
mục thông báo tới Rô-ma về tình hình điều tra và hỏi xem Rô-ma có í kiến bất
lợi nào không về án này.
Nếu không có
cản trở từ phía Rô-ma, giờ đây giám mục sẽ cho thành lập một toà án với công
tác chính là phỏng vấn các nhân chứng. Có hai loại nhân chứng: Những người quen
biết trực tiếp và những người biết gián tiếp với vị tôi tớ. Cả hai nhóm đều
được mời tới. Mọi í kiến thuận hay nghịch đều được ghi nhận. Người chứng nào ở
quá xa và khó có điều kiện tới toà, thì toà sẽ phái một quan toà tới để phỏng
vấn tại chỗ.
Sau khi kết
thúc việc phỏng vấn nhân chứng, giám mục phải điều tra xem nơi mộ của người
chết có diễn ra cảnh thờ kính (bất chính thức) không. Nếu có, phải ra lệnh đình
chỉ ngay, vì nếu không thì đây sẽ là lí do chận đứng mọi bước tiến tiếp.
Các hồ sơ của
toà án địa phận sẽ được sao ra thêm hai bản có thị thực của chưởng khế. Hai bản
sao và bản chính được chưởng khế đóng triện khoá lại trong một buổi lễ kết thúc
trang trọng trước sự hiện diện của giám mục, các quan toà, kẻ đứng đơn, vị uỷ
quyền và những tín hữu có liên hệ. Hai bản sao sau đó được vị uỷ quyền trực
tiếp mang tới nộp cho Bộ tại Rô-ma, bản chính được lưu giữ tại văn khố của giáo
phận.
Vì hiện nay
Bộ ở Rô-ma chỉ chính thức dùng tiếng La-tinh, Í, Pháp, Tây-ban-nha và Anh, nên
mọi thứ tiếng khác đều phải dịch ra một trong các thứ tiếng đó.
GIAI ĐOẠN II: CẤP BỘ Ở RÔ-MA
Thẩm quyền tiếp tục xét duyệt tại Rô-ma là Bộ phong thánh, gồm thành viên
là các giám mục và hồng i. Đứng đầu Bộ là một hồng i, một tổng giám mục giữ vai
trò thư kí và một phụ tá thư kí. Ngoài ra, Bộ còn có các báo cáo viên
(relatoren, mỗi vị đặc trách một trường hợp), các luật sư đức tin (praelatus
theologus), các cố vấn, chuyên viên, chưởng khế, nhân viên hành chính…
Nhận được hồ sơ, Bộ soát lại xem công việc của giai đoạn một có gì sai trái
với giáo luật không. Rồi quyết định chuyển giao toàn bộ hồ sơ cho một báo cáo
viên đặc trách. Vị này sẽ cùng với người uỷ quyền (của giáo phận) lập nên một
“hồ sơ về gương nhân đức” của ứng viên, hay một “hồ sơ về gương tử đạo” nếu ứng
viên là người tử đạo. Đây là một tài liệu thiết lập một cách khoa học trình bày
về cuộc đời, sự nghiệp và cái chết, đặc biệt chú trọng tới chi tiết các gương
nhân đức, của ứng viên và về tình hình chung liên hệ tới vị quá cố đó.
“Hồ sơ” được chuyển cho vị luật sư đức tin. (Trước đây còn có “luật sư của
quỷ” đóng vai trò tìm cách chống lại án; nay vai trò này đã bị bỏ). Vị này sẽ
cùng với 8 cố vấn (chuyên viên về tín lí, lịch sử giáo hội và tâm linh) xét
duyệt và bỏ phiếu. Có được 2/3 phiếu thuận của nhóm này, “hồ-sơ” sẽ được đưa ra
trước đại hội đồng của Bộ. Nếu đa số đại hội đồng bỏ phiếu thuận, báo cáo viên
sẽ lập một “bản tường trình” lên cho giáo chủ. Chỉ một mình giáo chủ có quyền
quyết định ban hành sắc lệnh liên hệ về án này. Nếu giáo chủ đồng í, ngài sẽ
ban hành một sắc lệnh chuần i, và từ giây phút này ứng viên được mang tước “Bậc
đáng kính” hay “Chân phước” (Venerabilis). Sắc lệnh “Bậc đáng kính” của tôi tớ
Gio-an Phao-lô II đã được giáo chủ Biển-đức ban hành ngày 19.12.09 vừa qua.
Để án phong có cơ được thực hiện, giờ đây là lúc (các) phép lạ được yêu cầu
bổ sung. Lại một tiến trình bắt đầu từ giáo phận nơi xẩy ra phép lạ. Giám mục
giáo phận điều tra, thu góp tài liệu (hồ sơ bệnh lí, hình chụp quang tuyến… ),
lập thành hồ sơ, sao ra và chuyển lên Bộ. Dựa trên hồ sơ của giám mục, Bộ lập
ra một bản tường trình chuyển cho uỷ ban chuyên viên gồm 5 vị (thường là phép
lạ lành bệnh, nên uỷ viên phần nhiều là các bác sĩ danh tiếng) nghiên cứu và
xét duyệt. Sau đó chuyển cho các cố vấn thần học, rồi tới đại hội đồng. Và cuối
cùng được trình lên giáo chủ để quyết định. Trong việc xét phong Á thánh cho
các vị tử đạo, giáo chủ thường miễn điều kiện phải có một phép lạ, bởi vì tử
đạo đã là một hành vi đức tin đủ lớn rồi. Còn ra, bình thường, phải cần ít nhất
một phép lạ.
Án phong của giáo chủ Gio-an Phao-lô II bắt đầu bước sang giai đoạn chứng
minh phép lạ. Trong số các chứng từ gởi về, bên đứng đơn cho hay có ba trường
hợp có thể được chọn (lấy một): Một nữ tu ở Pháp khỏi bệnh Parkinson, đôi vợ
chồng Ba-lan hiếm muộn đã có được một cháu bé và một bào thai gặp nguy đã được
cứu vớt, cả ba trường hợp trên đều diễn ra một cách lạ lùng và nhờ lời cầu bầu
của tôi tớ Gio-an Phao-lô II.
GIAI ĐOẠN III: QUYẾT ĐỊNH SẮC PHONG CỦA GIÁO
CHỦ
Thường một khi sắc lệnh “về nhân đức” hay “về tử đạo” đã được ban hành
(nghĩa là người tôi tớ đã được danh hiệu là “Bậc đáng kính”), thì việc tuyên
phong Á thánh chẳng còn trở ngại gì nữa.
Nghi thức tôn phong Á thánh có thay đổi theo thời gian.
Cho tới gần đây, nghi thức này thường do giáo chủ cử hành tại Rô-ma, trong
một thánh lễ đại triều, có mời cả ngoại giao đoàn. Sau nghi thức thống hối
trong thánh lễ, giám mục địa phương liên hệ cùng với vị uỷ quyền bước lên trước
giáo chủ xin được ghi tên vị chân phước vào danh sách các Á thánh. Giáo chủ
đồng í và xác định luôn các thủ tục và ngày kính. Giáo chủ Gio-an Phao-lô là
người đầu tiên đã không nhất thiết cử hành nghi lễ này tại Rô-ma. Ngài đã làm
lễ tuyên phong Á thánh cho nữ tu Edith Stein và linh mục Rupert Mayer tại Đức.
Giáo chủ Biển-đức XVI quyết định việc phong Á thánh không do giáo chủ cử
hành nữa, mà ngài ủy quyền cho một hồng i hay giám mục thay thế, và nghi thức
sẽ được cử hành chủ yếu tại giáo phận nơi đứng đơn.
Còn về việc phong Thánh, theo truyền thống, giáo chủ thường hỏi í kiến của
các hồng i có mặt tại giáo triều trước khi quyết định, nhưng ngài không buộc
phải theo í kiến chung của họ. Thánh lễ đại triều phong Thánh có thêm phần kinh
cầu các Thánh.
Giáo luật hiện hành không còn phân biệt việc phong Á thánh hay Thánh nữa. Chỉ
còn mỗi một “phong thánh” (canonizatio) mà thôi. Nhưng trên thực tế cho tới nay
vẫn còn hai nghi thức. Điểm khác nhau có thể nói như sau: Á thánh được tôn kính
hạn chế trong một dòng tu, một vùng hay một quốc gia. Cũng không được lập bàn
thờ riêng để tôn kính vị đó trong các nhà nguyện, nếu không có phép đặc biệt
của Toà thánh. Còn Thánh được tôn kính cho cả hoàn vũ. Ngoài ra, để được phong Thánh,
giáo luật đòi phải có thêm một phép lạ nữa, kể từ sau ngày tuyên phong Á thánh.
Đa số nhà thần học coi việc phong Thánh là một hành vi không sai lầm (bất khả
ngộ) của giáo chủ.
Trên đây là chuyện thủ tục rắc rối của diễn tiến một án phong. Nhưng điều
quan trọng cần biết hơn đối với chúng ta: Đâu là í nghĩa và bản chất của việc
phong thánh. Sách Giáo Lí Công Giáo (số 828) ghi về điểm này: “Khi Giáo hội
tuyên phong một số tín hữu nào đó lên hàng thánh, nghĩa là long trọng tuyên bố
những người này đã thực thi các nhân đức một cách anh hùng và đã sống trung
thành với ân huệ của Chúa, đó là Giáo hội công nhận sự hiện diện của sức mạnh
tinh thần thánh thiện nơi Giáo hội. Giáo hội tăng cường thêm hi vọng nơi tín
hữu bằng cách trao cho họ các thánh như là những gương sống và là kẻ cầu bầu
cho họ. Vào những lúc Giáo hội gặp khó khăn nhất, các thánh luôn là người mở ra
sự đổi mới. Sự thánh thiện là nguồn bí ẩn và thước đo không sai lầm của sức
mạnh truyền giáo nơi Giáo hội”.
Viết theo tác giả Ulrich Nersinger trên Zenit trang Đức ngữ ngày 13.03.07
Phạm Hồng Lam