Cuộc tông du tới Đất Thánh
Chỉ còn vài ngày nữa, Đức Giáo Hoàng
Bênêđíctô XVI sẽ rời
Một trăm giáo sĩ Do Thái chuẩn bị chào
đón Đức Giáo Hoàng
Ngày 30 tháng Tư vừa qua, hãng tin Zenit
thông báo: hơn một trăm giáo sĩ Do Thái thuộc đủ hệ phái khác nhau sẽ ký tên
trên một thông điệp để chào đón Đức Bênêđíctô XVI nhân dịp ngài đặt chân tới
Đất Thánh, và để khích lệ cuộc đối thoại giữa người Do Thái Giáo và người Kitô
Giáo.
Các vị Chủ tịch Qũy Quốc Tế dành cho việc
Giáo Dục Liên Tôn và Liên Văn Hóa là Adalberta và Armando Bernardini cho hay:sứ
điệp này sẽ được công bố trên trang mạng của nhật báo Do Thái
"Ha'Arezt". Sáng kiến này được một trong các hội viên của Qũy cổ vũ,
đó là Giáo Sĩ Jack Bemporard. Vị này đồng thời cũng là giám đốc Trung Tâm Hiểu
Biết Liên Tôn (Center for Interreligious Understanding) đặt tụ sở tại
Từ ngày 8 tới ngày 15 tháng Năm, Đức GH sẽ
viếng thăm Đất Thánh, Gio-đăng, Do Thái và lãnh thổ Palestine, trong một cuộc
thăm viếng được chính phủ Do Thái mô tả là “cây cầu hòa bình”. Sứ điệp của các
giáo sĩ có tên là “Hợp nhất trong Thời Đại ta” được gợi hứng từ văn kiện “Thời
Đại Ta” (Nostra Aetate) của Công Đồng Vatican II, tức tuyên ngôn của Công Đồng
Vatican II, công bố ngày 28 tháng Mười năm 1965, nhằm cổ vũ các mối liên hệ gần
gũi hơn giữa người Do Thái Giáo và người Công Giáo.
Một cách đặc biệt, thông điệp nói trên
trích dẫn đoạn sau đây của tuyên ngôn kia: “Vì gia tài thiêng liêng chung đối
với người Kitô Giáo và người Do Thái Giáo hết sức lớn lao, nên thánh công đồng
này muốn cổ vũ và khuyến cáo sự hiểu biết và kính trọng lẫn nhau ấy, vốn trước
nhất là hoa trái của các cuộc nghiên cứu về thánh kinh và thần học cũng như đối
thoại trong tình anh em”.
Ngỏ lời với Đức Thánh Cha, thông điệp trên
khẳng định rằng: “Trong tinh thần đó, chúng tôi, các giáo sĩ và các nhà lãnh
đạo Do Thái, xin niềm nở chào đón ngài và phái đoàn hòa bình của ngài tới Do
Thái. Đồng thanh nhất trí, chúng ta hợp nhất với nhau trong cam kết đối thoại
liên tôn, trong việc mở rộng nhiều ngả đường hơn nữa để gia tăng sự hiểu biết,
và để liên tục thừa nhận và củng cố mối liên hệ quan trọng giữa người Công Giáo
và người Do Thái Giáo khắp nơi trên thế giới.
“Và đâu là chỗ tốt hơn để tái khẳng định
mối liên hệ ấy cho bằng Thánh Địa Do Thái, một nơi mà cả hai tôn giáo chúng ta
đều trân quí như là một phần trong gia tài chung”.
Tiến bộ đáng kể
Theo tin Zenit ngày 3 tháng Năm, tại
Giêrusalem, Ủy Ban Thường Trực Song Phương Giữa Nhà Nước Do Thái và Tòa Thánh
đã cho công bố kết của cuộc họp vào ngày thứ Năm vừa qua. Ủy Ban này định kỳ gặp
nhau để cố gắng thăng tiến các cuộc thương thảo liên quan tới Thoả Hiệp Căn Bản
năm 1993.
Bản tuyên ngôn vừa nói viết rằng: “Phiên
họp toàn thể của Ủy Ban đã diễn ra trong bầu không khí rất thân hữu và trong
tinh thần hợp tác cũng như thiện chí… Phiên toàn thể ghi nhận rằng Ủy Ban Cấp
Làm Việc đã thực hiện được tiến bộ đáng kể, vào thời điểm trước cuộc thăm viếng
quan trọng sắp đến của Đức Giáo Hoàng tới Giêrusalem. Hai bên thoả thuận sẽ tổ
chức phiên toàn thể sắp đến vào ngày 10 tháng Mười Hai năm 2009 tại
Những con mắt lé
Trong khi ấy, không thiếu những người Công
Giáo tỏ ra dè dặt đối với cuộc tông du này. Tuần báo Công Giáo Anh là tờ The
Tablet số ngày 2 tháng Năm vừa qua liên tiếp có một số bài nhấn mạnh nhiều
hơn đến những chuyện tiêu cực. Như bài của Robert Mickens chẳng hạn, chỉ cần
nghe cái tựa cũng thấy có mùi không tích cực: “Trước cuộc tông du, căng thẳng
đang tích lũy tại Đất Thánh”. Ông này kể ra ba sự kiện: một là địa điểm dựng
khán đài chào đón Đức GH khi ngài tới thăm trại tỵ nạn Aida tại
Vấn đề an ninh thứ hai là sự an toàn của
Đức GH trong Thánh Lễ ngoài trời tại Nadarét vào ngày 14 tháng Năm. Nhật báo Do
Thái Ha'aretz nói rằng sở an ninh Shin Bet yêu cầu không nên chở Đức GH vòng
quanh khu hành lễ bằng “giáo hoàng xa” có kiếng vì sẽ không an toàn trong
trường hợp bị những nhóm quân sự Hồi Giáo quá khích tấn công. Tuy nhiên, Đại Sứ
Do Thái bên cạnh Tòa Thánh là Mordechay Lewy, vào tuần này, nhấn mạnh rằng sẽ
không có chuyện đó để mà quan tâm. Các Kitô hữu người Ả Rập cũng như người Do
Thái hy vọng rằng giáo hoàng xa sẽ được sử dụng để càng nhiều người được nhìn
thấy Đức GH càng tốt. Một lần nữa, Tòa Thánh cũng từ chối không bình luận gì.
Một bất đồng khác có thể gây phiền phức cho
cuộc tông du là việc nội bộ, liên quan tới phản ứng của Giáo Hội Melkite (thuộc
nghi lễ Byzantine), là giáo hội có số người Công Giáo lớn nhất trong vùng, hiện
hiệp thông đầy đủ với tòa Rôma. Họ cho rằng họ bị đẩy ra bên lề cuộc viếng
thăm, hay đúng hơn, ban tổ chức chỉ muốn họ là một đám đông, chứ không phải là
một giáo hội, bởi vì nghi thức phụng vụ dùng trong cuộc tông du này không hề có
một nét Byzantine nào cả. Theo họ, các giới chức phụ trách cuộc tông du nên hiểu
rằng: “Đức Thánh Cha là giáo hoàng của cả Giáo Hội Công Giáo, chứ không của
riêng Giáo Hội La Tinh”.
Đất Thánh, bãi mìn chính trị
Tờ báo này còn đăng bài của Anshel Pfeffer
với tựa đề giật gân như trên. Theo Pfeffer, nếu biết nhìn xa, Đức GH không nên
nhận lời mời của Tổng Thống Do Thái, Shimon Peres, qua thăm Đất Thánh vào ngay
lúc gay cấn nhất của lịch sử sóng gío tại vùng này. Nhiều biến cố đã xẩy ra làm
thay đổi khung cảnh chính trị của Do Thái trong khoảng sáu tháng kể từ ngày
cuộc tông du được thỏa thuận vào tháng Mười Một năm ngoái. Trong đó, phải kể
đến chiến dịch đẫm máu Do Thái tấn công phong trào Hamas tại Giải
Tờ báo này còn cho rằng việc Giáo Triều sẵn
sàng chấp nhận lời mời của Do Thái khiến chính ông Peres phải ngạc nhiên. Một
phụ tá ông Peres thổ lộ: sau khi gặp sứ thần Tòa Thánh là Đức TGM Antonio
Franco, ông Peres phát biểu: “chúng tôi không nghĩ là sẽ có cơ may Đức Giáo
Hoàng tới thăm trong một tương lai gần. Khi Đức Sứ Thần bảo nếu chúng tôi đặt
lời mời thì chắc chắn sẽ có đáp ứng tích cực, điều ấy làm chúng tôi ngạc
nhiên”.
Vấn đề chính lúc ấy là cuộc tranh cãi quanh
Đức Piô XII. Phía Công Giáo đòi phải thay đổi lời ghi chú liên quan tới Đức Piô
XII tại Yad Vashem, là địa điểm toàn quốc tưởng niệm Nạn Diệt Chủng của Do
Thái. Phía Do Thái thì phản đối diễn trình phong thánh cho vị Giáo Hoàng này.
Thỉnh nguyện viên phong thánh cho Đức Piô XII là linh mục sử gia Peter Gumpel,
Dòng Tên, tuyên bố rằng Đức GH sẽ không viếng Do Thái cho tới khi lời ghi chú
kia được thay đổi. Mặc dù Tòa Thánh tỏ ra dè dặt đối với lời tuyên bố của Cha
Gumpel, nhưng một cuộc viếng thăm thì xem ra chỉ là chuyện sau cùng trên nghị
trình. Thế rồi cơ hội xuất hiện, ông Peres đặt lời mời và lời mời ấy mau chóng
được tiếp nhận.
Tuy nhiên, dù được chấp nhận, phía Do Thái
cũng giữ rất kín việc này sợ tuyên bố sớm, trước khi các chi tiết được giải
quyết xong, sẽ làm trật đường rầy cuộc viếng thăm. Họ tự hỏi không biết cuộc
tông du này có gây ra phiền toái gì về phương diện ngoại giao hay không.
Nhóm đặt kế hoạch đã vẽ ra cả một bãi mìn
chính trị có thể có. Theo thông lệ, việc tới thăm Yad Vashem là một điều bắt
buộc đối với các vị nguyên thủ quốc gia và là địa điểm mà vị giáo hoàng người
Đức không thể loại khỏi lộ trình của mình, nhưng cuộc tranh cãi quanh Đức Piô
XII có thể tránh được bằng cách không để Đức GH tới thăm viện bảo tàng nơi có
lời chú giải gây xúc phạm kia, mà chỉ cần ngài tới đặt vòng hoa tại đài kỷ niệm
mà thôi. Còn đối với cuộc tranh chấp
Tuy nhiên đó mới chỉ là những cái bẫy ở đầu
đường. Dù nhiều người Do Thái muốn cải thiện mối liên hệ giữa hai tôn giáo,
nhưng chính phủ Do Thái thì chỉ nhằm cái lợi chính trị. Một viên chức chính phủ,
ngay sau khi cuộc tông du được công bố đã cho rằng “Chúng tôi coi cuộc thăm
viếng của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô tới Do Thái là một khích lệ có ý nghĩa đối
với thế đứng quốc tế của chúng tôi”. Trưởng phòng thông tin tại phủ thủ tướng,
là cơ quan phối hợp các cố gắng giao tế quốc tế của Do Thái, được chỉ định làm
thành viên trong ủy ban đặt kế hoạch, để đảm bảo các hình ảnh các nhà lãnh đạo
Israel tiếp đón Đức GH được phổ biến khắp thế giới. Vatican dĩ nhiên hiểu rõ
phương cách Do Thái mô tả cuộc viếng thăm; đó chính là lý do cho việc đặt tên
cuộc hành trình này là “cuộc hành hương Đất Thánh” chứ không phải cuộc thăm
viếng một quốc gia.
Ấy thế nhưng không phải chỉ có nhà nước Do
Thái chơi trò chính trị. Các lãnh tụ của một cộng đồng nhỏ Công Giáo Ả Rập đang
o bế giới báo chí trong những ngày gần đây để họ đừng chỉ dành các cột báo cho
duy một mình Đức GH mà thôi, mà còn rao bán họ như một nhóm có hiệu quả tại
Israel. “Với Đức Giáo Hoàng tại đây, chúng tôi có thể chứng tỏ cho các anh em
Hồi Giáo thấy tuy nhỏ, nhưng chúng tôi có những người bạn rất lớn”.
Ngay trong số người Công Giáo địa phương,
cũng không hẳn là hoàn toàn hoà điệu. Hai cộng đồng chính là
Mối liên hệ giữa người Do Thái Giáo, Hồi
Giáo và Kitô Giáo tại Haifa có lẽ là mối liên hệ hài hòa nhất tại bất cứ nơi
nào thuộc Trung Đông, trong khi tại Nadarét, người Công Giáo đang phải tranh
đấu, một cuộc đấu tranh đang thua, chống lại các phong trào chính trị và tôn
giáo của Hồi Giáo, nhằm kiểm soát tòa thị chính địa phương. Kế hoạch xây một
đền hồi giáo lớn ngay bên cạnh Vương Cung Thánh Đường Truyền Tin luôn là nguồn
gây ra bạo động khôn nguôi. Cuối cùng, Nadarét vẫn được chọn. Một ai đó trong Giáo
Triều rất có thể cho rằng sự hiện diện của Đức GH tại đó sẽ khích lệ lòng tự
tin của người Công Giáo, nếu không phải là viễn ảnh đang xuống dốc của họ.
Những chạy vạy chính trị ấy không qua được
mắt cấp lãnh đạo của nhóm Hồi Giáo lớn nhất tại Do Thái, tức Phong Trào Duy Hồi
Giáo (Islamist Movement). Hai tuần trước đây, nhóm này tuyên bố sẽ tẩy chay
cuộc viếng thăm của Đức Giáo Hoàng. Lý do chính đưa ra là Diễn Văn Năm 2006 tại
Những nhóm
Hiện cũng đang có bàn tán tới việc tẩy chay
về phía Do Thái. Các thành phần trong Hội Đồng Thành Phố Giêrusalem đã lên
tiếng kêu gọi thị trưởng của họ không tham dự các buổi tiếp tân tại thủ phủ
này, để phản đối việc Vatican tham gia hội nghị “Durban 2” về nhân quyền do
Liên Hiệp Quốc tổ chức tại Genève vào tuần rồi, trong đó Tổng Thống Iran là
Mahmoud Ahmadinejad, đã đọc bài diễn văn chính. Đức GH từng ca ngợi hội nghị
ấy, gọi nó là “một sáng kiến quan trọng”. Còn các cư dân Do Thái tại Khu Cổ
Thành Giêrusalem thì đang dự tính sẽ phản đối ngồi tại Tường Phía Tây để phán
đối cảnh sát đã ra lệnh đóng cửa đền thánh thiêng nhất của Do Thái Giáo trong
suốt 12 giờ Đức GH đến thăm.
Hành hương củng cố tín hữu
Thiển nghĩ Tòa Thánh và chính Đức Bênêđíctô
XVI biết rất rõ ‘bãi mìn chính trị’ trên đây và những khó khăn do nó tạo ra cho
chuyến tông du sắp tới. Nhưng Đức Bênêđíctô XVI, như cả thế giới đã thấy, không
phải là người sợ bất cứ bãi mìn nào. Các phản ứng dữ dội của thế giới Hồi Giáo
đối với bài diễn văn
Theo tin Zenit, ngày 3 tháng Năm vừa qua,
trong buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng (Regina Coeli) với khách hành hương
tại Công Trường Nhà Thờ Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha cho mọi người hay: mục đích
chuyến hành hương tới Đất Thánh của ngài là để cổ vũ đối thoại, hòa giải và hoà
bình. Ngài xin họ cầu nguyện cho chuyến hành hương được thành công. Ngài nói
thêm: ngài chỉ theo chân Đức Phaolô VI và Đức Gioan Phaolô II, đến để “củng cố
và khích lệ các Kitô hữu của Đất Thánh, những người ngày đêm phải đương đầu với
nhiều nỗi khó khăn. Trong tư cách kế nhiệm Tông Đồ Phêrô, cha muốn chứng tỏ
(cho họ) sự gần gũi và nâng đỡ của toàn bộ cơ thể Giáo Hội. Mặt khác, cha cũng
sẽ là một khách hành hương hòa bình, nhân danh Thiên Chúa độc nhất, là Cha mọi
người. Cha sẽ làm chứng cho sự cam kết dấn thân của Giáo Hội Công Giáo đối với
những ai đang cố gắng thực hành đối thoại và hòa giải, đạt tới một nền hòa bình
ổn định và bền vững trong công lý và lòng kính trọng lẫn nhau”.
Cuối cùng, Đức Giáo Hoàng nói rằng: chuyến
tông du này “tất yếu sẽ có một ý nghĩa đại kết và liên tôn đáng ghi nhận. Theo
quan điểm này, Giêrusalem là kinh thành có tính biểu tượng tuyệt hảo: tại đây,
Chúa Kitô đã chết để tái hợp nhất mọi con cái tản mác của Thiên Chúa”.
Với mục tiêu ấy và với lời cầu nguyện của
tín hữu hoàn cầu, “bãi mìn” nào ngài cũng sẽ vượt qua để ban bố 29 bài diễn văn
và bài giảng lễ, gặp gỡ các nhà cầm quyền dân sự và đại diện Kitô Giáo, Hồi
Giáo và Do Thái Giáo ở đấy.
Không chính trị, vẫn lên đường
Cũng theo tin Zenit (3/5/09), phát ngôn
viên Tòa Thánh là Linh Mục Federico Lombardi, Dòng Tên, tuyên bố rằng cuộc tông
du của Đức Thánh Cha tới Đất Thánh đúng là một cuộc hành hương tôn giáo, chứ
không phải là một cuộc công du chính trị.
Cha cho hay: cuộc tông du này là cuộc tông
du “được chờ mong nhất” xưa nay, và có lẽ là cuộc tông du “kết liên nhất”. Cha
minh xác rằng: trước hết đây là một hành trình đức tin, mặc dù các biến cố ở
Trung Đông phần lớn được người ta giải thích theo nghĩa chính trị. “Lòng khao
khát thiêng liêng của mọi Kitô hữu đã trở thành ưu tiên tự phát cho nhiều vị
giáo hoàng kể từ khi việc du hành quốc tế trở thành một khả thể cụ thể… Không
phải là tình cờ khi cuộc hành hương của Đức Phaolô VI tới Đất Thánh chính là
cuộc hành hương đầu hết trong tất cả các chuyến đi loại này. Nó là thời khắc
thực sự có tính lịch sử và là thời khắc của ân sủng đối với Giáo Hội Công Giáo,
lúc ấy đang cử hành Công Đồng, vì con đường đại kết qua cuộc gặp gỡ với Đức
Thượng Phụ Athenagorus, và vì lời kêu gọi hòa bình giữa các dân tộc trong vùng
và trên thế giới’.
Cha Lombardi còn nói thêm rằng: “Đức Gioan
Phaolô II phải chờ một thời gian khá lâu trước khi thể hiện được ước muốn hành
hương tới đó, nhưng sau đó, ngài đã thực hiện được chuyến đi trong thanh thản,
giữa ngay Năm Thánh, lúc cao điểm nhất trong triều giáo hoàng của ngài, bằng
những giờ phút cầu nguyện cực kỳ thâm hậu và bằng những cử chỉ thân hữu và gần
gũi hết sức đáng nhớ đối với nhân dân Do Thái và nhân dân Palestine, với các
thống khổ quá khứ và hiện tại của họ”.
Bây giờ đến lượt Đức Bênêđíctô XVI. Cha
Lombardi nhìn nhận rằng: “tình hình chính trị trong khu vực rất bấp bênh, và
khả thể hòa bình rất mỏng manh. Nhưng Đức Giáo Hoàng vẫn lên đường, với một
lòng quả cảm đáng khâm phục, đặt căn bản trên đức tin, để lên tiếng cho hòa
giải và hòa bình”. Theo cha, “mọi người chúng ta cần tháp tùng ngài không những
chỉ bằng lời cầu nguyện bình thường, mà còn bằng một chuyển động tâm linh mà
Đức Gioan Phaolô II gọi là ‘lời cầu nguyện vĩ đại’, để Giáo Hội được canh tân
ngay ở chính nguồn của mình, để sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu xẩy ra sớm hơn,
và để thù hận cuối cùng phải nhường bước cho hòa giải”.
Vũ Văn An (dunglac.org)