Hoa trái cỦa Năm Thánh Phaolô
(Vietcatholic - Jun 2009 08:00) – Năm thánh Phaolô sẽ chính thức chấm dứt vào
ngày 29 tháng Sáu. Nhưng liệu Thánh Phaolô, vị Thánh có người xưng tụng là Tiến
Sĩ Dân Ngoại, chứ không phải chỉ là Tông Đồ Dân Ngoại, có lui vào bóng tối
không?
Nhìn
vào những sinh hoạt rầm rộ trong mấy ngày qua tại Rôma, người ta có quyền nghĩ
rằng điều trên không xẩy ra. Thực vậy, một số biến cố chung quanh các nghi lễ
bế mạc cho thấy một nỗ lực nhằm tiếp tục cái động lượng (momentum) của năm
thánh đầy ơn phúc này. Một cuộc trưng bày nghệ thuật tại Bảo Tàng Viện Vatican
sẽ tiếp tục lôi cuốn tín hữu, trong khi Tòa Thánh phái bẩy vị đặc sứ tới các
quốc gia, nơi Thánh Phaolô từng cư ngụ, trước khi chịu tử đạo tại Kinh Thành Muôn
Thuở, để nhấn mạnh nguyện vọng hợp nhất của các dân tộc này.
Các
vị được chọn trong Hồng Y Đoàn đã lên đường tới các nơi chỉ định: Giêrusalem,
Malta, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, Siria và Li Băng, tất cả đều là những địa danh nổi
tiếng khắp thế giới, nhưng hòn đảo nhỏ Sýp đáng được hưởng một giây phút rạng
ngời đặc biệt vì vai trò quan trọng của nó trong lịch sử Kitô Giáo.
Sách
Tông Đồ Công Vụ cho ta biết Thánh Phaolô (lúc ấy còn mang tên Saolô) cùng
Barnaba rời Antiôkia qua Đảo Sýp vào khoảng các năm 45-47 và bắt đầu rao giảng
tại các hội đường của Salamis phía đông hòn đảo.
Bất
chấp mọi gian nan thử thách, một trong các thành công lớn đầu tiên của Thánh
Phaolô đã diễn ra trên đảo này. Vượt lên trên các mưu đồ của người phù thủy địa
phương là Elymas, Thánh Phaolô đã làm cho tổng trấn La Mã là Sergius Paulus trở
lại Kitô Giáo. Nhờ thế, Đảo Sýp đã trở thành lãnh thổ đầu tiên của Đế Quốc được
cai trị bởi một Kitô hữu.
Địa
điểm xẩy ra biến cố có tính xoay chiều lịch sử Giáo Hội này tọa lạc tại phía
tây hòn đảo, thuộc thành phố Paphos, lúc ấy từng nổi tiếng thế giới vì là thành
đầu tiên của nữ thần Aphrodite.
Vốn
sinh ra từ các triều sóng Địa Trung Hải, Aphrodite được từ từ trôi dạt vào đảo
Sýp, và khi lên bờ tại Paphos, nàng đã đem tình yêu và sắc đẹp lại cho nhân loại.
Thánh Phaolô hoàn thiện hóa món quà qúy giá của nàng Aphrodite bằng cách tỏ lộ
mô thức yêu thương và cái đẹp nhập thể của Chúa Kitô cho cửa ngõ Biển này là
Sýp.
Khi
rời khỏi đảo này, vị Tông Đồ Dân Ngoại cũng để lại cả cái tên Saolô vốn có từ
trước đến nay, để nhận lấy một căn cước khác với tên Phaolô.
Đảo
Sýp từ đó trở thành miếng mồi tranh chấp của nhiều phe phái, kể cả bây giờ.
Thời xưa, Sýp vốn bị chiếm đóng bởi các hoàng đế Byzantine, bởi người Ả Rập,
bởi thập tự quân, bởi người Vênixia và bởi người Thổ Nhĩ Kỳ thời Ottoman. Nhưng
sợi dây liên kết mạnh mẽ với Kitô Giáo, một phần trong di sản của Thánh Phaolô,
vẫn là nét nổi bật của Sýp trong bao thế kỷ nay.
Nữ
hoàng Charlotte của Sýp bị buộc phải thoái vị vào năm 1463 để nhường ngôi cho
người em cùng cha khác mẹ đầy âm mưu của mình. Bà trốn qua Rôma, chết ở đó, và
được chôn cất tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô. Ngày nay, mộ của bà nằm
đối diện với mộ của Tôi Tớ Chúa là Đức GH Gioan Phaolô II.
Cuộc
chinh phục của người Ottoman đã đặt đảo này dưới sự cai trị của Thổ Nhĩ Kỳ vào
năm 1570, nhưng một cuộc kiểm tra dân số năm 1872 cho thấy đa số dân vẫn trung
thành với Kitô Giáo: 100,000 so với 44,000 theo Hồi Giáo. Hòn đảo nhỏ nhưng đầy
ý nghĩa này, từ lâu, vốn là bằng chứng cho thấy hạt giống được Thánh Phaolô
gieo tại Địa Trung Hải vừa có tính khó khăn vừa có tính lâu bền, và khi năm
thánh mừng ngài qua đi, vẫn không có dấu hiệu nào cho thấy những hạt giống ấy
tàn lụi.
Một
liên minh giá trị
Lúc
Đức Hồng Y Renato Martino lên đường qua đảo Sýp mang theo sứ điệp hợp nhất của
Rôma, một đặc sứ của Sýp cũng đã được ‘mở màn’ tại Rôma. Đó là bức ảnh của
Thánh Nicholas tis Ste’gis. Bức ảnh này được trưng bày vào ngày thứ Tư sau một
cuộc tái tạo lâu dài tại các phòng chuyên môn ở Rôma. Bức tranh này khổ 203 cm
x 158 cm, vẽ hình Thánh Nicholas bằng sơn trộn lòng trứng (tempera) trên nền
gỗ, chung quanh có những cảnh diễn tả lại cuộc đời của thánh nhân. Ngài vốn là
vị thánh được cả Giáo Hội Đông Phương lẫn Giáo Hội Tây Phương yêu kính.
Bức
tranh trên được vẽ vào thế kỷ 13, dành cho nhà thờ Thánh Nichloas tis Ste’gis
thuộc thành phố Kakopetria, tọa lạc khoảng giữa thủ đô Sýp là Nicosia và thành
phố Paphos. Ngày nay, nó được lưu giữ tại Bảo Tàng Viện Byzantine của
Kakopetria.
Bức
tranh được đem tới Rôma để trùng tu sau khi các yếu tố thời tiết đã làm hư nước
sơn và mối mọt đã làm yếu nền gỗ, và kẻ phá hoại đã cạo mất các khuôn mặt của
những người hiến tặng được vẽ ở dưới chân vị thánh.
Liên
minh giữa Rôma và Sýp trong việc cứu công trình nghệ thuật thánh này đã phản
ảnh một cách sâu sắc sự hợp tác mạnh mẽ về nghệ thuật giữa người Sýp và người
Rôma thời Trung Cổ.
Thực
vậy, bức tranh này vẽ trên một mặt phẳng được lót không những bằng vữa và vải
sợi mà còn bằng một miếng da thú (permagum) dán cứng vào gỗ bằng keo súc vật.
Kỹ thuật đặc biệt được sáng chế tại Sýp này đã góp phần duy trì được bức tranh
lâu đời và đã được truyền cho các nghệ sĩ Ý thời Trung Cổ.
Bức
tranh Thánh Nicholas cao 6 bộ Anh, đóng khung mạ vàng có trang trí hoa huệ, một
biểu tượng của nghệ thuật Tây Phương. Các chất mầu quí giá, đá da trời, vàng và
bạc vốn là các đặc điểm của bức tranh, nhưng thường được xuất khẩu qua Rôma.
Phía trên đầu Thánh Nhân, Chúa Giêsu trao cho Thánh Nicholas một cuốn Phúc Âm
trong khi Đức Mẹ ban tặng ngài tấm pallium, biểu hiệu chức vụ giám mục
đã do Chúa Giêsu và Giáo Hội ban cho ngài.
Các
khối bên cạnh trên bức tranh vẽ lại đời sống và các phép lạ của ngài, nhưng
việc lồng món quà hồi môn Thánh Nicholas dành cho các cô gái nghèo và cuộc phục
sinh ba vị linh mục bị thản sát, cho thấy cả ảnh hưởng La Tinh lẫn ảnh hưởng
Đông Phương trong nghệ thuật tạo ảnh tượng.
Người
ta tin rằng các người dâng tặng thuộc một gia đình La Tinh quí tộc, căn cứ vào
con chim ưng đế quốc trên áo giáp của một nhân vật đứng ở phía phải. Công trình
nghệ thuật này, vốn được thực hiện dưới thời người Tây Phương thống trị đảo,
nói lên sự hợp tác phong phú giữa các nghệ sĩ Sýp và những người La Tinh yêu
nước trong việc cùng thực hiện các tranh vẽ đẹp đẽ này để làm vinh danh Thiên
Chúa hơn nữa.
Tình
bạn muôn thuở
Bảo
Tàng Viện Vatican, nơi thu hút cả Kitô hữu lẫn người không phải là Kitô hữu, đã
quyết định giữ cho ngọn lửa của năm Thánh Phaolô tiếp tục rực sáng sau khi năm
này kết thúc. Ngày 25 tháng Sáu vừa qua, Bảo Tàng Viện đã khai mạc một cuộc
trưng bày mới đặt tên là “Thánh Phaolô tại Vatican: Các lời và hình ảnh của
Tông Đồ Các Dân Tộc trong Các Bộ Sưu Tập Giáo Hoàng”. Cuộc triển lãm này sẽ kéo
dài tới ngày 27 tháng Chín năm nay.
Đặt
tại Bảo Tàng Kitô Giáo Piô (Pio Christian Museum) cuộc triển lãm này tập hợp
hơn 120 công trình lấy từ nhiều phần khác nhau của các sưu tập giáo hoàng; một
số lấy từ Vương Cung Thánh Đường Thánh Phaolô Ngoại Thành, trong khi các công
trình khác được các đại học giáo hoàng hay Thư Viện Vatican cho mượn.
Những
sách chép tay họa hiếm và những hình ảnh cổ xưa dựng lại cả khuôn mặt lịch sử
của Thánh Phaolô lẫn di sản các bức thư của ngài qua các thế kỷ và lục địa.
Phần
đầu trình bày các khám phá mới đây lẫn xưa kia quanh ngôi mộ của Thánh Nhân tại
Vương Cung Thánh Đường Thánh Phaolô Ngoại Thành. Mẫu ngôi nhà thờ cũ do
Theodosius xây vào thế kỷ thứ 5 và phiến đá thời danh đặt tại mộ Thánh Phaolô
và có khắc hàng chữ “Phaolô, Tông Đồ, Tử Đạo” cho thấy tính cách cổ xưa của
truyền thuyết về địa điểm chôn cất Thánh Phaolô.
Một
quan tài đồ sộ bằng đá có từ khoảng năm 350, được đặt tên là “Quan Tài Tín Lý”
(“Dogmatic Sarcophagus”), tạc hình Chúa Ba Ngôi một cách công phu lần đầu tiên
trên thế giới, được tìm thấy cạnh mộ Thánh Phaolô, chứng tỏ ngôi mộ của ngài
hết sức thời danh lúc đó.Gần 30 cổ vật cho thấy sự phát triển trong nghệ thuật
hình ảnh về Thánh Phaolô. Các tranh thủy mạc sống động của Đức Cha Joseph
Wilpert vẽ hình ảnh lấy từ các hang toại đạo ở Rôma cũng như những tranh nổi
trên các quan tài bằng đá cho thấy nét mặt và lịch sử của Thánh Phaolô đã được
phổ biến lần đầu ra sao qua nền văn hóa tượng hình cao độ của thế giới La Hy.
Các
nghệ phẩm đáng yêu nhất của khu này chính là những bức ảnh bằng thuỷ tinh và
vàng, vốn là vật kỷ niệm của các khách hành hương thời xa xưa, với hình hai
Thánh Phêrô và Phaolô khảm bằng vàng lá giữa những tấm kính. Nghệ thuật tạo ảnh
tượng về hai vị Tân Romulus và Remus, tức hai vị đồng sáng lập ra Tân Rôma Kitô
Giáo này, sau đó đã phát triển rộng rãi.
Mối
liên hệ giữa Thánh Phêrô và Thánh Phaolô còn được cuộc trưng bày này phân tích
hơn nữa qua rất nhiều hình ảnh về Thánh Phaolô tìm thấy tại mộ Thánh Phêrô. Từ
chiếc bình đựng Mình Thánh thuộc thế kỷ 15 của Paolo Romano tại Vương Cung
Thánh Đường trình bày việc Thánh Phaolô bị chặt đầu, tới hình Thánh Phaolô trên
cửa đồng hiện đang trang trí cho ngôi nhà thờ, tất cả các công trình này đều có
công dụng làm nổi bật tình thân hữu và đoàn kết giữa Tông Đồ Dân Ngoại và Thủ
Lãnh Các Tông Đồ.
Khu
sau cùng trình bày các chứng tá bằng lời viết. Bản khắc Kitô Giáo xưa nhất, tức
Văn Bia Albercius có từ cuối thế kỷ thứ hai, mô tả cuộc hành hương của Đức Giám
Mục thành Hieropolis, người từng dùng các thư của Thánh Phaolô làm “sách hướng
dẫn của tôi”. Các ấn bản Thánh Kinh từ những bản chép tay có họa hình của
Charles Hói Đầu (Charles the Bald) ở thế kỷ thứ chín tới các ấn bản mới nhất
của Hội Đồng Giám Mục Ý thẩy đều làm chứng cho di sản các lời viết của Thánh
Phaolô.
Bản
dịch Thánh Kinh sang tiếng Đức của Luthêrô được đặt nằm cạnh các bản chú giải
của Thánh Tôma Aquinô, và các sách phúc âm bằng tiếng Slav, Copt, Ả Rập, Tây
Ban Nha, Trung Hoa và Ácmêni nói lên tính phổ quát trong các thư của Thánh
Phaolô.
Vốn
coi mình mắc nợ “cả người Hy Lạp lẫn người mọi rợ, cả người khôn ngoan lẫn
người không khôn ngoan” (Rm 1:14), Thánh Phaolô đã bổ túc cho Bảo Tàng Viện một
cách hoàn hảo. Vì nghệ phẩm trong bộ sưu tập giáo hoàng quả đã lôi cuốn người
thuộc đủ hậu cảnh và niềm tin, trong khi cuộc trưng bày giúp Thánh Phaolô rao
giảng một lần nữa giống như lúc ngài lên tiếng tại Agora ở Athens và các hội
đường ở Sýp. Hoa trái vĩ đại nhất của năm Thánh Phaolô dĩ nhiên là lúc người ta
biết tiếp tục lắng nghe ngài.
Theo
Elizabeth Lev, giáo sư môn nghệ thuật và kiến trúc Kitô Giáo tại Đại Học
Duquesne ở Ý, và Đại Học Thánh Tôma. Zenit 25 tháng Sáu, 2009
Vũ
Văn An