Nghĩ về giải pháp cho những xung đột
1. Trong thời gian gần
đây, tình trạng tranh chấp dẫn đến khiếu nại, khiếu kiện về nhà đất diễn ra công
khai, được phản ánh qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc lan truyền
trong dư luận, đang thu hút sự quan tâm của nhiều người. Đặc biệt một số vụ
việc cụ thể mới đây, liên quan đến đất đai của cơ sở Công giáo, đã kết thúc
bằng việc chính quyền sử dụng công lực (bắt giam và khởi tố hình sự nhiều người
liên quan), càng khiến dư luận quan tâm với nhiều quan ngại. Mối quan ngại
trong các tầng lớp nhân dân nảy sinh từ diễn tiến và cách giải quyết một số vụ
tranh chấp.
Cách giải quyết tranh chấp đất đai, dựa trên Luật đất đai 2003 và các nghị
định hướng dẫn thi hành, đã bộc lộ những bất cập. Do đó Luật đất đai 2003 đang
được tu sửa cho phù hợp với tình hình mới.
Giáo Hội tại Việt Nam, qua văn kiện Quan điểm của Hội đồng Giám mục
Việt Nam về một số vấn đề trong hoàn cảnh hiện nay do Đức cha
Chủ tịch Phêrô Nguyễn Văn Nhơn ký ngày 25-09-2008 tại Xuân Lộc, đã từng chính
thức đưa ý kiến về sự cần thiết phải “sửa đổi cho hoàn chỉnh” đối với Luật đất
đai 2003.
Trong văn kiện này, HĐGMVN thẳng thắn góp ý về tinh thần mà bộ luật về đất
đai cần phải thể hiện:
“Việc sửa đổi này cần phải quan tâm tới quyền tư hữu của
người dân như Tuyên ngôn Quốc tế của Liên Hiệp Quốc về Nhân quyền đã khẳng
định: “Mọi người đều có quyền tư hữu cho riêng mình hay chung với người khác…
và không ai có thể bị tước đoạt tài sản của mình cách độc đoán” (số 17). Vì
thế, chúng tôi cho rằng thay vì chỉ giải quyết theo kiểu đối phó hoặc cá biệt, thì
giới hữu trách phải tìm giải pháp triệt để hơn, tức là để người dân có quyền
làm chủ tài sản, đất đai của họ, đồng thời người dân cũng phải ý thức trách
nhiệm của mình đối với xã hội. Đòi hỏi này lại càng khẩn thiết hơn trong bối
cảnh toàn cầu hoá ngày nay, khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn vào nhịp
sống chung của thế giới. Đây sẽ là tiền đề cho việc giải quyết tận gốc những vụ
khiếu kiện về đất đai và tài sản của người dân, đồng thời góp phần tích cực vào
sự tăng trưởng kinh tế và sự phát triển vững bền của đất nước.”
Đất đai vốn là một tài sản, tư liệu sản xuất không thể thiếu được trong mọi
nền kinh tế. Vì thế quản lý nhà nước về đất đai là một trong những chức năng
đặc biệt quan trọng của các nhà nước.
Theo quy định của Luật Đất đai hiện hành, thì đất đai thuộc sở hữu toàn dân
và do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Dù mang tư cách là đại diện chủ sở hữu
nhưng Nhà nước có quyền gần như tuyệt đối trong việc định đoạt đối với đất đai.
Ví dụ, theo điều 5, Luật Đất đai, Nhà nước có các quyền: quyết định mục đích sử
dụng đất; quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất; cho phép chuyển đổi
mục đích sử dụng đất; định giá đất; quyết định về hạn mức giao đất và thời hạn
sử dụng đất... Với những quyền to lớn đó, nếu không có quy định ràng buộc chặt
chẽ và cơ chế giám sát hữu hiệu thì khó tránh khỏi sự lạm dụng cuả những người
nắm giữ quyết định đối với mọi vấn đề liên quan đến đất đai. Đó là tình trạng
lạm dụng để đoạt lợi, nhất là khi đất đai trở thành một thứ hàng hóa có giá trị
như hiện nay.
Thực tế cho thấy, đất đai hiện đã trở thành “tài sản”, “nguồn vốn”, “hàng
hóa” trong nền kinh tế thị trường. Đây là tiền đề phát sinh lòng tham chiếm
đoạt, thủ lợi trên đất đai.
Có thể nói, đ ất đai đã và đang trở thành một nguồn lợi béo bở nhất, đồng
thời cũng dễ dàng nhất cho nạn tham nhũng. Do đó, không được bỏ qua mục tiêu
ngăn chặn tham nhũng trong nội dung của Luật Đất đai.
Công nhận và bảo vệ quyền tư hữu của con người đối với đất đai, ngăn chặn
tham nhũng, đó là những mục tiêu phải đạt được khi sửa đổi Luật Đất đai.
Thể hiện được tinh thần vừa nêu, Luật Đất đai mới thực sự được thiết lập vì
con người và cho con người.
Đó cũng là một trong những cách giải quyết thiết thực những vướng mắc về
đất đai, trong đó có vướng mắc về lịch sử sở hữu đối với nhà, đất, trường học,
bệnh viện, cơ sở thờ tự của tôn giáo đã từng bị trưng thu, chiếm dụng.
2. Những vụ khiếu nại, khiếu kiện về đất đai đang tồn đọng thành núi “hồ sơ
chờ giải quyết” tại các cơ quan hữu trách, từ địa phương đến trung ương. Hơn
nữa nó đã chuyển thành nhiều cuộc tụ tập đông người tại những cơ quan tiếp nhận
dân nguyện ở Hà Nội, TP.HCM. Nhất là trong thời gian gần đây, đã xảy ra sự việc
tại nhà thờ Tam Tòa (Quảng Bình) từ ngày 20-07-2009, khi sự kiện Tòa Khâm sứ Hà
Nội, nhà thờ Thái Hà vẫn còn dư âm, chưa dứt.
Tại ba nơi vừa kể, đã diễn ra những sự việc đáng tiếc và đau lòng: xô xát
giữa nhân viên công lực và giáo dân; chỉ trích nhau trên các phương tiện thông
tin.
Trước tình hình đáng bi quan của hai sự kiện Tòa Khâm sứ và Thái Hà năm
2008, đặc biệt bàu khí đối đầu do các phương tiện thông tin tạo ra, Hội đồng
Giám mục Việt Nam trong văn kiện Quan điểm của Hội đồng giám mục Việt Nam về
một số vấn đề trong hoàn cảnh hiện nay, đã phải đưa ra nhận định:
“Trong tiến trình giải quyết những tranh chấp, một số
phương tiện truyền thông thay vì là nhịp cầu liên kết và cảm thông thì lại gieo
rắc hoang mang và nghi kỵ.”
Và thẳng thắn yêu cầu những người có trách nhiệm truyền thông xã hội:
“Trong thực tế, đã có những thông tin bị bóp méo hoặc cắt
xén, như trong trường hợp tranh chấp đất đai tại Toà Khâm Sứ cũ. Vì thế, chúng
tôi đề nghị những người làm công tác truyền thông đại chúng phải hết sức cẩn
trọng khi đưa tin tức và hình ảnh, nhất là khi liên quan đến danh dự và uy tín
của cá nhân cũng như tập thể. Nếu đã phổ biến những thông tin sai lạc thì cần
phải cải chính.”
Quan điểm
trên được HĐGMVN phát biểu trong bối cảnh căng thẳng của hai sự kiện Tòa Khâm
sứ và Thái Hà năm 2008. Tuy hiện nay chưa được nhắc lại trong sự kiện nhà thờ
Tam Tòa, nhưng chắc chắn quan điểm của HĐGMVN về yêu cầu đặt ra cho giới truyền
thông sẽ không hề thay đổi. Tinh thần cơ bản mà HĐGMVN mong muốn giới truyền
thông, và không chỉ giới truyền thông mà còn mọi thành phần trong đời sống công
cộng, là phải tôn trọng sự thật, vì:
“Chỉ khi tôn trọng sự thật, truyền thông mới thực sự hoàn thành chức
năng của mình là thông tin và giáo dục nhằm xây dựng một xã hội công bằng, dân
chủ và văn minh”.
Phải luôn tôn trọng sự thật. Sự thật là trên hết. Nền tảng
giải quyết mọi tranh chấp, đối đầu và xung đột là mưu tìm, thừa nhận và tôn
trọng sự thật.
Sự thật của vấn đề tranh chấp vốn
thuộc lãnh vực dân sự, thì không giải thích theo hướng chính trị.
Sự thật của việc diễn tả sự khiếu
nại không phải là một hành vi hình sự, thì không dùng phương án giải quyết
khiếu nại bằng con đường hình sự hóa vụ việc.
Sự thật của vấn đề đất đai thuộc về
lịch sử quyền sở hữu, thì chỉ nên cùng nhau tìm kiếm và lắng nghe tiếng nói của
các chứng cứ.
Sự thật của những việc “đòi đất” vừa
qua - và của những đất đang được khiếu nại - không phải là những động thái đối
đầu hoặc mưu tìm một lợi ích nào khác, ngoài việc phát biểu yêu cầu phải xác
định sự chính danh khi sử dụng đất.
3. Người
công giáo Việt Nam, qua các mục tử của mình trong chuyến Ad limina 2009, đã đón
nhận những hướng dẫn của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI về cuộc sống làm chứng cho
Tin Mừng giữa lòng dân tộc:
“Anh Em cũng như Tôi đều biết rằng
một sự hợp tác lành mạnh giữa Giáo Hội và cộng đồng chính trị là điều có thể
thực hiện được. Về điểm này, Giáo Hội mời gọi mọi phần tử của mình dấn thân
cách trung thành nhằm xây dựng một xã hội công bằng, liên đới và bình đẳng. Giáo
Hội không hề muốn thay thế Chính quyền, nhưng chỉ mong rằng trong tinh thần đối
thoại và hợp tác tôn trọng nhau, Giáo Hội có thể góp phần mình vào đời sống của
đất nước, nhằm phục vụ tất cả mọi người dân.” (Trích
Huấn
từ của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI
tại buổi triều yết dành cho các giám mục Việt Nam ngày 27-6-2009 tại Vatican ).
Quả thật, ngay trong những sự kiện
“căng thẳng” giữa nhà chức trách ở một số địa phương với cộng đoàn công giáo
tại đó, các Kitô hữu vẫn không từ bỏ và mất niềm tin về triển vọng “một sự
hợp tác lành mạnh giữa Giáo Hội và cộng đồng chính trị là điều có thể thực hiện
được” như lời ĐTC căn dặn.
Người công giáo Việt Nam thấu triệt hướng dẫn của Giáo Hội: “Giáo Hội
không hề muốn thay thế Chính quyền, nhưng chỉ mong rằng trong tinh thần đối
thoại và hợp tác tôn trọng nhau, Giáo Hội có thể góp phần mình vào đời sống của
đất nước, nhằm phục vụ tất cả mọi người dân” (tlđd).
Vì thế, khi tình thế đòi hỏi phải nêu ý kiến phản biện, thì chỉ nhằm ích
lợi chung của đất nước, không hề có bất kỳ tham vọng nào, ngoại trừ ước muốn
góp phần thăng tiến đời sống vật chất và tinh thần của con người. Động thái
phản biện của mọi người dân, trong đó có người công giáo Việt Nam, cần được
hiểu đúng đắn là sự thực thi quyền được đối thoại thẳng thắn và chân thành,
hướng đến mục tiêu công ích. Do đó mọi xuyên tạc đối với hành vi thiện chí nêu
trên sẽ phá hoại con đường tìm kiếm chân lý, gây bàu khí bất hòa và bất tương
kính, hơn nữa sẽ dập tắt nhiệt tình cống hiến cho đất nước của những công dân
thành tâm.
Tất nhiên, cũng như mọi người dân thiện chí khác, người công giáo hoàn toàn
hiểu rõ mọi thành quả đều phải có tiến trình. Muốn công cuộc đổi mới đạt kết
quả tốt đẹp cũng phải có thời gian.
Cuộc sống xã hội ở nước ta, trong một thời gian dài, được tổ chức theo một
lề lối khác với cộng đồng thế giới. Nay đất nước chuyển mình hội nhập, chưa thể
ngày một ngày hai đạt đến những chuẩn mực đã mang tính toàn cầu. Vì thế cùng
với mọi người dân thiện chí, người công giáo kiên nhẫn góp phần vào sự tiến bộ
chung, khoan dung trước những thiếu sót, cùng ưu tư và cùng hy vọng với mọi anh
chị em đồng bào của mình, trong đó có cả anh chị em đang đảm nhận chức trách
trong bộ máy công quyền.
Mong ước thiết tha của chúng ta lúc này là, mọi thành phần trong xã hội đều
được mời gọi bước vào mọi cuộc đối thoại, thảo luận, tranh biện.
Những cuộc đối thoại thẳng thắn, cởi mở và chân thành, trong hoà bình và
tôn trọng lẫn nhau.
BBT Website HĐGMVN (WHĐ)