Giới trẻ, Kinh
Thánh và các tật xấu của con người thời nay
RV 27/08/2009 – Phỏng vấn Đức Tổng Giám Mục Giancfranco
Ravasi, Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh Văn Hóa về giới trẻ, Kinh Thánh và các tật
xấu của con người ngày nay
Ngày 21-8-2009 chương trình tiếng Bulgari của đài
Vaticăng đã thực hiện một cuộc phỏng vấn quay phim Đức Tổng Giám Mục
Giancfranco Ravasi, Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh Văn Hóa về các thách đố văn hóa
trong thế giới toàn cầu, ngôn ngữ của người trẻ, cách thức họ tiến tới gần Kinh
Thánh và các tật xấu của con người thời nay. Chúng tôi đã gửi tới qúy vị và các
bạn phân đầu cuộc phỏng vấn đề cập tới các thách đố văn hóa trong thế giới toàn
cầu. Hôm nay xin gửi tới qúy vị nội dung phần hai của bài phỏng vấn về người
trẻ, Kinh Thánh và các tật xấu của con người thời nay.
Hỏi: Kính thưa Đức Tổng Giám Mục Ravasi, nền văn hóa
trong thế giới toàn cầu như Đức Cha đã miêu tả hướng tới chỗ giáo dục người trẻ
sống theo vật chất có giảm thiểu giá trị của nền văn hóa đích thực, là nền văn
hóa luôn tìm hướng con người lên cao hay không?
Đáp: Để trả lời câu hỏi này, tôi xin lập lại lời nói của một
nghệ sĩ Mỹ rất nổi tiếng đó là ông Bill Viola, tác giả của một Video nghệ thuật
liên quan tới các biểu tượng như nước, ánh sáng để diễn tả mầu nhiệm các lần Thiên
Chúa tự tỏ hiện. Ông nói: “Chúng tôi bị khiêu khích bởi ước muốn của Đức Cha là
khiến cho nghệ thuật mới có thể trở vào trong các nhà thờ. Lý do vì nghệ thuật
ngày nay loại trừ hai nhân tố nền tảng trong qúa khứ. Nhân tố thứ nhất loại trừ
việc tìm kiếm vẻ đẹp, nhân tố thứ hai là loại trừ ý nghĩa của một sứ điệp. Đó
là sự diễn tả cảm xúc, diễn tả thực tại bùng nổ với các ý nghĩa tối tăm”. Đó là
lý do tại sao nghệ thuật đang ở trong một tình trạng khó khăn, ngày càng trở
thành điểm quy chiếu của chính nó, đóng kín trong chính nó trong các hình ảnh
không thể hiểu nổi, nếu không có cùng loại ngôn ngữ. Đây có lẽ là dịp đặt vấn
nạn trở lại về con người, về mầu nhiệm của các dấu chỉ mà con người nhìn thấy
chung quanh mình, về sự siêu việt. Chúng ta hãy nghĩ tới giá trị của các biểu
tượng, và ý nghĩa của chúng.
Hỏi: Các người thông truyền của Giáo Hội làm thế nào để
khiến cho Kinh Thánh “ngon lành hơn” đối với giới trẻ ngày nay, và khiến cho nó
dễ hiểu hơn với ngôn ngữ của họ, thưa Đức Cha?
Đáp: Tôi xin đề nghị ba con đường. Thứ nhất là con đường ghi
nhận rằng Kinh Thánh dùng thứ ngôn ngữ biểu tượng. Chúa Kitô đã giảng dậy bằng
các dụ ngôn. 35 dụ ngôn trở thành 72 dụ ngôn, nếu kể cả các ẩn dụ và các so
sánh. Vì thế phải trở về với một ngôn ngữ, hay đề nghị ngôn ngữ của Kinh Thánh
trong các biểu tượng của nó. Con đường thứ hai là chỉ cho người trẻ thấy bên
trong Kinh Thánh có tất cả các vấn đề, các câu hỏi và các cật vấn cấp bách nhất
trong cuộc sống con người. Nếu muốn chọn một vài tác phẩm kinh thánh để giới
thiệu các vấn đề đó với người trẻ thì hãy lấy sách Diễm Ca, sách ông Giốp, sách
Qohelet và lấy Diễn Văn Trên Núi tức Hiến Chương Tám Mối Phúc Thật.
Tôi đã lấy 4 thí dụ trên đây vì các tác phẩm này đề cập
tới các vấn đề: mầu nhiệm sự dữ, hạnh phúc và niềm vui của tình yêu, ý nghĩa
cuộc khủng hoảng, sự tràn đầy của việc cho đi, sự tràn đầy của cuộc sống. Các
yếu tố này tôi phải gỡ chúng ra khỏi ngôn ngữ. Và đây là con đường thứ ba. Ngôn
ngữ kinh thánh là ngôn ngữ thuộc các thời đại khác nhau nhưng có điểm lợi, vì nó
là ngôn ngữ biểu tượng. Nó là một ngôn ngữ được sao đi chép lại. Sao đi chép
lại trong các bản dịch, và các bản dịch mới trong ngôn ngữ của người trẻ rất là
quan trọng; thế rồi cũng có các bản dịch bằng hình ảnh đó là Kinh Thánh như
được diễn tả trong lịch sử nghệ thuật trong tất cả mọi hình thái của nó, kể cả
lịch sử phim ảnh. Chẳng hạn chúng ta hãy nghĩ xem phim Phúc Âm thánh Matthêu
của Passolini muốn nói gì, Phúc âm thánh Marco của Pisolini muốn nói gì. Đó là
một kiểu dịch Kinh Thánh bằng phim ảnh. Đó là chưa kể tới biết bao nhiêu các
tác phẩm nghệ thuật rất phong phú diễn tả các cảnh và các nhân vật trong Kinh
Thánh từ cổ chí kim. Rồi nếu muốn giới thiệu sách Khải Huyền thì có thể lấy
cuốn phim “Dấu ấn thứ bẩy” của đạo diễn Bergman. Nghĩa là tôi cũng phải khiến
cho người trẻ tái chiếm được nền văn hóa cổ xưa hay mới đây, mà họ chỉ nghe nói
đến trong trường học, hay không nghe nói đến bao giờ. Đó là ba con đường: con
đường của biểu tượng, con đường của các đề tài, và con đường của ngôn ngữ.
Hỏi: Thưa Đức Tổng Giám Mục Ravasi, ngày nay có vài cuốn
sách hay cuốn phim đề cập tới các biến cố của Giáo Hội và tìm kích thích tính
tò mò của con người. Tín hữu phải có thái độ đúng đắn nào đối với các sản phẩm
văn hóa này?
Đáp: Trước hết cần phải nói rằng trong loại phim này sự thái
qúa khiến cho chúng trở thành không thật. Khi đưa ra nhiều cảnh bất thình lình,
khi phóng đại các tội phạm, và khi phóng đại cả mầu sắc, thì khán gỉa chắc chắn
coi đó chỉ là một trò chơi, chứ không phải một sứ điệp.
Và đó là các phản ứng có thể ghi nhận được ở bên ngoài
rạp chiếu phim. Tuy nhiên cần phải chú ý tới một yếu tố đáng buồn khác nữa. Đó
là sự dốt nát nòng cốt, như là một bàn tay che mắt thế giới của các tín hữu chứ
không che mắt xã hội tục hóa ngày nay. Chính thế giới của các tín hữu có một
trình độ hiểu biết qúa thiếu sót và kém cỏi đến báo động về các sự thật lòng
tin, về lịch sử Kitô giáo, một cách tối thiểu. Và đây là một câu hỏi cật vấn
nhất là đối với Giáo Hội. Ngày trước thì có giáo lý và việc thông truyền kiến
thức lòng tin qua nhiều cách thế khác nhau. Giờ đây có lẽ vì lý do ngôn ngữ, đề
tài thông truyền của Giáo Hội không còn có ý nghĩa lớn, không còn có sự bén
nhọn nữa. Như thế để tìm bổ túc cho sự dốt nát, cho cái trống rỗng hiểu biết
đó, cần phải chú ý tới tình trạng hiểu biết yếu kém ấy và chắc chắn cần có vài
hình thức, vài đơn giản hóa... Thí dụ, đối với các cuốn sách có khuynh hướng vô
thần rất là tầm thường xoàng xĩnh thì câu trả lời có chiều kích triết lý thần
học cao không thích hợp. Cần tìm ra các câu trả lời tức thì, đôi khi có hình
thái một cú đánh hữu hiệu. Và đây cũng là nhiệm vụ phái có đối với các cuốn
phim mới được đề nghị sau này.
Hỏi: Trong cuốn sách viết về các tật xấu chính, Đức Cha
cho rằng tật xấu không còn là hiện tượng cá nhân nữa, mà đã biến trở thành hiện
tượng xã hội. Thế thì đâu là các tật xấu được liệt kê ưu tiên trong danh sách
đen, thưa Đức Cha?
Đáp: Đúng thật là có một quan niệm thuộc loại duy lý tưởng và
duy chủ thể, theo đó tội lỗi là một vấn đề riêng tư, là một lỗi cá nhân. Nhưng
ngược lại với quan niệm này ngày nay người ta càng ngày càng xác tín rằng trên
thực tế mỗi một hành động của con người đều có một âm hưởng. Mỗi một hành động
đều có một âm hưởng trên chính chính người đó. Chúng ta hãy nghĩ tới một người
nghiện ma túy: họ tàn phá chính họ và tàn phá cả gia đình họ nữa, bởi vì tất cả
những người chung quanh đều bước vào trong vòng xoắn của thảm cảnh, và như thế
nó không phải là một tật xấu riêng rẽ nữa. Nếu tôi phạm điều bất công, sự bất
công đó âm hưởng trên người khác. Như thế càng ngày cả khoa tâm lý cũng càng
chú ý tới hiện tượng cá nhân như hiện tượng xã hội. Ngoài ra cũng phải nói rằng
việc phổ biến tật xấu cũng do sự kiện thông truyền các tật xấu cá nhân khiến
chúng trở thành một kiểu mẫu công cộng. Hãy lấy một thí dụ tự phát, tức thì
nhất: chẳng hạn một lúc nào đó một thái độ tính dục không kiềm chế trở thành
tật xấu gọi là dâm đãng, được một vài nhân vật chính trong dư luận chung đề
nghị, thì nó tự động trở thành mẫu cho người ta bắt chước. Như vậy phải thừa nhận
rằng các hiện tượng cá nhân đều mang một chiều kích xã hội, và ngược lại các
hiện tượng xã hội đều ảnh hưởng trên cá nhân. Nếu một cá nhân yếu đuối đứng
trước các gương tồi bại, thì chắc chắn là họ bắt chước các gương tồi bại ấy.
“Mimesis” bắt chước trong tiếng Hy Lạp: ở đây không chỉ là bắt chước gương lành
của Chúa Kitô, mà là bắt chước sự đổ đốn tồi bại.
Tật xấu như vậy trước hết là một hiện tượng cá nhân, nó
là sự tự do của con người ngày càng nhượng bộ sự dữ, nhưng đàng khác nó cũng là
hiện tượng xã hội.
Hỏi: Thế thì tật xấu nào là tật xấu nền tảng, thưa Đức
Cha?
Đáp: Đối với truyền thống tật xấu nền tảng là sự kiêu căng,
là tính kiêu ngạo. Nó được coi như sự quyết định coi cái gì là thiện cái gì là
ác, và hậu qủa là tất cả mọi tật xấu khác, là việc bẻ gẫy sự hài hòa. Ở đây tôi
muốn trích lại một câu của ông Carl Kraus, một nhà văn bi quan của thế kỷ XIX.
Ông nói: “Có sự khác biệt nào giữa tật xấu và nhân đức? Có cùng một sự khác
biệt giữa than đá và kim cương. Cả hai đều được tạo thành bởi một nền tảng
chung là than. Than trở thành kim cương, than trở thành than đá”. Nếu chúng ta
nhìn vào cuống họng, thì cũng thế. Cuống họng như là điểm khởi hành có một nhân
đức là nhân đức sống còn, còn hơn thế nữa là sự thông truyền niềm vui: không
phải các đám cưới được đồng hành bởi bữa tiệc hay sao? Sự đau đớn trong phụng
vụ Đông phương cũng được diễn tả bằng tiệc đám táng “panihida”, bao gồm chiều
kích của thực phẩm. Khi thực phẩm trở thành yếu tố của sự đồi trụy, sự qúa đáng
hay sự thiếu vắng, thì trước hết nó trở thành một hiện tượng tâm thần, tâm lý -
con người tàn phá chính mình, khi ăn uống qúa độ hay không ăn uống gì - nhưng
nó cũng trở thành sự phung phí, thái độ khinh mạn, sự đồi trụy được diễn tả một
cách rạng rỡ và tàn bạo bởi cuốn phim tựa đề “Bữa đại nhậu” của đạo diễn Marco
Ferreri, trong đó thực phẩm và cái chết sống với nhau. Như vậy từ kim cương
chúng ta đi tới than đá, đi tới cái chết. Chính vì lý do đó tôi cho rằng sự
kiêu căng ngạo mạn là tật xấu nền tảng. Chính cái kiêu căng của con người bẻ gẫy
lược đồ luân lý. Từ đó phát xuất ra sự đổ dốc tồi bại của tất cả mọi thực tại,
kể cả các thực tại tích cực như sự nghỉ ngơi, sự an bình trở thành tính lười
biếng, tính dục trở thành dâm đãng.
Hỏi: Thưa Đức Tổng Giám Mục Ravasi, như thế thì làm sao
để bảo vệ người trẻ khỏi bị lôi cuốn bởi tính dục sai lầm?
Đáp: Tôi nghĩ ở đây cũng phải trở lại với các vấn đề truyền
thông, giáo dục và đào tạo. Phải đưa người trẻ trở lại với nhân loại đích thật,
có ba móc xích nối liền nhau mà không bị bẻ gẫy. Xã hội ngày nay đã bẻ gẫy ba
móc xích đó và tiếp tục bẻ gẫy chúng. Móc xích thứ nhất là tính dục, một ơn rất
xinh đẹp Thiên Chúa ban cho con người. Tính dục là nguyên lý của sự sinh nở, là
một yếu tố sinh học tạo thành con người. Các thúc đẩy tính dục là một nhân tố
nền tảng đối với sự sống. Nó cũng là nhân tố đối với thú vật. Tuy nhiên con
người còn có khả năng cho một móc xích thứ hai nữa, khiến cho chính phái tính
được xinh đẹp hơn, đích thật hơn: đó là “eros”. Eros là gì? Đó là sự khám phá
ra vẻ đẹp của người khác, của sự mỹ, của sự dịu dàng, của óc tưởng tượng, của
tâm tình, của đam mê. Sách Diễm Ca biết tới eros, biết sự chiêm ngắm thân xác
của người nữ và thân xác của người nam được diễn tả mà không có sự bối rối nào.
Thú vật không biết tới “eros”, vì eros là thi văn, eros là óc tưởng tượng, eros
là sự sáng tạo. Nhưng điều này không đủ để trong eros người khác còn được coi
như một đối tượng xinh đẹp, để có một liên hệ với người ấy. Và đây là móc xích
thứ ba: đó là tình yêu. Và tình yêu trái lại là một niềm vui tràn đầy của sự
thông truyền, của sự hiệp thông, mắt trong mắt, nỗi khổ đau và sự tươi vui được
thông truyền cho người khác. Đó là điều mà người phụ nữ nói trong sách Diễm Ca:
“Người tôi yêu là của tôi và tôi là của chàng, và tôi là của người tôi yêu và
người tôi yêu là của tôi”, nghĩa là có sự trao ban cho nhau, đến độ nói rằng
căn tính của tôi mà tôi có vì có người khác là nam hay là nữ. Theo tôi đối với
người trẻ, học đường - tôi không nói tới tôn giáo - trong trường hợp này học
đường và việc đạo tạo phải dậy cho họ biết giữ gìn ba móc xích đó nối liền
nhau. Và khi đó người trẻ sẽ hiểu được rằng đây không phải là việc khước từ
tính dục bởi nguyên tắc trong một hình thái khổ hạnh, và đàng khác đây cũng
không phải là việc giản lược tính dục thành vật chất lệch lạc như là báo chí
phim ảnh dâm ô giới thiệu: nó chỉ là xác thịt, chỉ là vật chất tính, hầu như là
thịt bị chặt ra, và không có trong nó tất cả óc sáng tạo và sự xinh đẹp của
tình yêu.
(SD 21-8-2009) 2/2
Linh Tiến Khải