Thượng Hội đồng Giám mục Trung Đông: Hiệp thông và Đối thoại
WHĐ/ESM (13.10.2010) – Sáng thứ Hai
11-10, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã chủ tọa phiên họp khoáng đại đầu tiên của
Thượng Hội đồng Giám mục Trung Đông.
Trước hết ĐTC gợi lại, cách nay 48 năm,
cũng vào ngày 11-10 (11-10-1962), Đức Gioan XXIII đã khai mạc Công đồng Đại kết
Vatican II.
Sau đó, Đức Hồng y Leonardo Sandri, Bộ
trưởng Bộ Các Giáo hội Đông phương, khai mạc phiên họp.
Đức TGM Nikola
Eterovic, Tổng thư ký của Thượng Hội Đồng Giám Mục, tóm tắt việc chuẩn bị cho khóa họp đã được
ĐTC công bố vào ngày 19-09-2009
nhân cuộc gặp gỡ các Thượng phụ Giáo chủ và các Tổng Giám mục Cả của các Giáo
hội Công Giáo Đông phương.
Tiếp theo, Đức Thượng phụ Giáo chủ Anthonios Naguib của Alexandria thuộc nghi lễ Copte, Tổng Tường trình viên đã đọc
bản tường trình sơ bộ, gồm những nét lớn về nội dung của THĐ: Những mục tiêu
của THĐ; Tình hình Giáo hội tại Trung Đông; Những thách thức đối với người Kitô
hữu; Những câu trả lời của người Kitô hữu trong cuộc sống, Người Kitô hữu làm chứng
Mục tiêu của THĐ
1) Khẳng định
và củng cố bản sắc của người Kitô hữu tại Trung Đông, nhờ Lời Chúa và các bí tích.
2)
Khơi lên
tình hiệp thông giữa các Giáo Hội thuộc những nghi lễ
khác nhau, để việc làm chứng đạt hiệu quả chung. Việc làm chứng ngày nay bao gồm các
chiều kích: hiệp thông, đối thoại liên tôn và truyền giáo.
Tình
hình Giáo hội Công giáo tại Trung Đông
Hiện
tình các tín hữu Kitô:
“Sự
hiểu biết về lịch sử Kitô giáo tại Trung Đông là rất quan trọng cho bản thân
người Công giáo chúng ta và cho phần còn lại của thế giới Kitô giáo... Các Giáo
Hội chúng ta, có phúc nhờ sự hiện diện của Chúa Kitô và các thánh Tông đồ, đã
là chiếc nôi của Kitô giáo và của các thế hệ Kitô hữu tiên khởi. Đó là lý do
tại sao các Giáo hội chúng ta được ơn gọi riêng gìn giữ ký ức sống động của
thời khai sinh, củng cố đức Tin cho các tín hữu và làm cho Thần Khí Tin Mừng
được sống động nơi các tín hữu, hướng dẫn cuộc sống và các mối quan hệ của họ
với các Kitô hữu khác và với những người không phải Kitô hữu...
Các
Kitô hữu là những “công dân bản địa” tại quê hương đất nước mình, là thành viên
có đầy đủ quyền hạn trong cộng đồng dân sự của mình. Họ cư ngụ lâu dài trong
ngôi nhà của mình. Sự hiện diện và tham gia của họ vào đời sống đất nước là cả
một kho tàng quý giá cần được bảo vệ và giữ gìn. Khía cạnh đời sống trần thế
tích cực của họ giúp cho Giáo Hội có thể mang lại sự đóng góp hiệu quả và sinh
ơn ích, giúp cho mọi người dân khẳng định tư cách công dân của mình, dựa trên
sự bình đẳng và tinh thần dân chủ…
Bằng
cách giới thiệu Giáo thuyết của Hội Thánh về Xã hội, các cộng đoàn Công giáo
chúng ta đem lại sự nâng đỡ hiệu quả trong việc xây dựng xã hội. Việc cổ võ các
giá trị đời sống gia đình và bảo vệ sự sống phải chiếm một vị trí chính yếu
trong nền giáo dục và trong sứ vụ của Giáo Hội. Giáo dục chính là lãnh vực cần
phải được ưu tiên hành động và được đầu tư chủ yếu”.
Những
thách đố đối với người Kitô hữu
“Tình
hình chính trị - xã hội tại từng đất nước của chúng ta có tác động trực tiếp
đến người Kitô hữu, vốn là những người cảm nhận rõ rệt nhất những hậu quả tiêu
cực.
Tại
Lãnh thổ Palestin đời sống hiện rất khó khăn, đôi khi vượt quá sức chịu đựng.
Vị thế của những người Kitô hữu gốc Ả rập là rất tế nhị. Bằng cách lên án
nguyên nhân phát sinh bạo lực, và kêu gọi tìm giải pháp đúng đắn và bền vững
cho cuộc xung đột Israel-Palestine, chúng ta bày tỏ tình liên đới với nhân dân
Palestine, hiện đang phải sống trong bầu khí của chủ nghĩa cực đoan giáo điều.
Lắng nghe tiếng nói của các Kitô hữu tại địa phương sẽ giúp chúng ta nắm được
tình hình tốt hơn.
Quy
chế dành cho Jerusalem cần phải tính đến tầm quan trọng của Jerusalem đối với
ba tôn giáo: Thiên Chúa giáo, Hồi giáo và Do Thái giáo...
Thật
đáng tiếc nền chính trị trên thế giới đã không xem xét đủ về tình trạng bi đát
của các Kitô hữu tại Iraq, họ là những nạn nhân chính của chiến tranh và những
hậu quả của nó để lại.
Tại
Liban, sự thống nhất cao độ giữa các Kitô hữu đã góp phần bảo đảm sự ổn định
của quốc gia.
Tại
Ai Cập, các Giáo Hội được thuận lợi nhờ biết phối hợp giữa những nỗ lực củng cố
các tín hữu trong đức tin với việc thực hiện những công trình vì lợi ích chung
của đất nước.
Tùy
theo khả năng của mỗi nước, các Kitô hữu cần phải phát huy dân chủ, công lý và
hòa bình, tinh thần nhập thế tích cực trong việc phân biệt giữa tôn giáo và nhà
nước, và tôn trọng mỗi tôn giáo. Thái độ tham gia tích cực vào xã hội là một
câu trả lời mang tính xây dựng cho cả xã hội lẫn Giáo hội. Sự cổ võ những quyền
của con người cần phải diễn ra trong hòa bình, công lý và sự ổn định. Tự do tôn
giáo là một thành phần thiết yếu của nhân quyền. Quyền được tự do cử hành việc
thờ phượng là một khía cạnh của tự do tôn giáo. Trong hầu hết các quốc gia
chúng ta, quyền này được hiến pháp bảo vệ. Nhưng dù vậy, ở một số nước, cũng có
một số quy định pháp lý hoặc trong việc thực thi pháp luật lại có những hạn chế
nhất định.
Một
khía cạnh khác là quyền tự do lương tâm, dựa trên sự lựa chọn tự do của con
người. Tình trạng không tôn trọng quyền tự do này đã cản trở sự tự do được lựa
chọn của những người muốn sống gắn bó với Tin Mừng nhưng lại lo ngại bản thân
và gia đình mình bị làm khó dễ... Quyền tự do lương tâm chỉ có thể tồn tại và
phát triển trong phạm vi có sự thăng tiến thái độ tôn trọng đầy đủ và toàn diện
mọi quyền của con người.
Trong
chiều hướng nêu trên, nền giáo dục có một ý nghĩa rất quý báu trong việc hỗ trợ
sự tiến bộ của quốc gia về phương diện văn hóa, sao cho công bằng và bình đẳng
hơn trước pháp luật.
Giáo
hội Công Giáo mạnh mẽ lên án mọi hình thức cưỡng bức tôn giáo. Tốt nhất vẫn là
thảo luận về những vấn đề này một cách nghiêm túc, chủ yếu trong nội bộ của
từng quốc gia, theo cơ cấu đối thoại có sự phân cấp rõ ràng.
Các
Giáo hội chúng ta vốn có nhiều cơ sở giáo dục, đó là một phương cách rất tốt để
thúc đẩy nền giáo dục. Các trung tâm y tế và các dịch vụ xã hội cũng minh chứng
hùng hồn cho lòng yêu thương tha nhân, không có sự kì thị hay phân biệt đối xử.
Việc đề cao giá trị các ngày kỉ niệm, sự kiện và những lễ hội địa phương và
quốc tế hướng đến tinh thần này đã góp phần phổ biến và củng cố nền văn hóa
tình thương. các phương tiện truyền thông được dùng để truyền bá tinh thần đó”.
“Gần
đây, việc di dân đã gia tăng tại các quốc gia chúng ta. Những nguyên nhân chủ
yếu là cuộc xung đột Israel-Palestine, cuộc chiến tại Iraq, tình hình chính trị
và kinh tế, sự leo thang tinh thần Hồi giáo cực đoan giáo điều và tình trạng
hạn chế quyền tự do và bình đẳng.
Các
bạn trẻ, những người có học thức và giàu có là thành phần đông đảo trong số di
dân, khiến cho Giáo Hội và quốc gia mất đi nguồn lực quý báu nhất. Di dân đang
cần được sự hỗ trợ đáng kể của quốc gia và Giáo Hội. Giáo Hội tại các quốc gia
gốc của người di cư phải tìm cách để duy trì quan hệ mật thiết với các tín hữu
di dân của mình, bảo đảm cho họ được sự nâng đỡ tinh thần. Cần bảo đảm cho tín
hữu các Giáo hội Đông phương được tham dự cử hành Phụng vụ theo nghi lễ của
mình tại các vùng theo nghi lễ latinh. Việc thanh lý tài sản của họ tại quê
hương thật là điều rất đáng tiếc. Nếu giữ gìn hoặc mua lại các bất động sản thì
cũng là cách khuyến khích họ hồi hương. Những cộng đoàn Diaspora (lưu lạc, tha
hương) có vai trò khuyến khích và củng cố sự hiện diện Kitô giáo tại Đông
phương, để tăng cường và khẳng định cho việc làm chứng, vì lợi ích của đất
nước. Một nền mục vụ thích hợp cần phải quan tâm vấn đề di dân ngay từ trong
nước”.
Câu
trả lời của người Kitô hữu trong đời sống
“Sự
đa dạng trong Giáo Hội Công giáo không gây thiệt hại nhưng làm nổi bật sự hiệp
nhất trong Giáo Hội”
Sự
hiệp thông trong Giáo Hội Công Giáo và Sự hiệp thông giữa các Giáo Hội với
nhau:
“Các
dấu chỉ chính biểu hiện sự hiệp thông trong Giáo Hội Công Giáo là: bí tích Rửa
tội, bí tích Thánh Thể, và sự hiệp thông với Giám mục Roma, Vị đứng đầu Tông đồ
đoàn. Lễ điển của các Giáo Hội Đông phương quy định các khía cạnh của sự hiệp
thông này, được Bộ Các Giáo hội Đông phương và các Bộ khác thuộc Giáo triều
Rôma tán đồng và thị thực.
Sự
hiệp thông giữa các Giáo Hội Đông phương với nhau được biểu hiện qua Hội đồng
các Thượng phụ Giáo chủ Công giáo Động phương”.
Chứng
từ Kitô giáo
Làm
chứng trong Giáo Hội: Dạy Giáo lý
“Hoạt
động dạy giáo lý ngày nay không thể bị giới hạn bằng cách duy nhất là dùng lời
giảng. Còn phải dùng các phương tiện tích cực nữa. Các phương tiện truyền thông
mới mẻ rất có hiệu quả trong việc rao giảng Tin Mừng và làm chứng. Các Giáo Hội
chúng ta cần có những chuyên viên trong các lĩnh vực này...
Việc
dạy giáo lý phải xem xét đến bối cảnh cuộc xung đột trong khu vực. Công việc
này phải giúp cho các tín hữu được thêm mạnh mẽ trong đức tin, đào luyện họ
sống điều răn yêu thương, trở nên người xây dựng hòa bình, công lý và biết thứ
tha. Sự dấn thân tham gia vào đời sống công cộng. là một nhiệm vụ đặt ra cho
việc làm chứng và sứ mệnh xây dựng Vương quốc của Thiên Chúa. Tất cả điều này
đòi hỏi phải huấn luyện vượt lên trên chủ nghĩa cuồng tín, bè phái và sự hận
thù trong nội bộ, để nhìn thấy khuôn mặt của Thiên Chúa trong mỗi người, và
cùng nhau làm việc để xây dựng một tương lai ổn định, hòa bình và hạnh phúc”.
Một
nền Phụng vụ được canh tân và trung thành với truyền thống
“Trong
các Giáo Hội Đông phương của chúng ta, Phụng vụ là trung tâm đời sống tôn giáo.
Phụng vụ giữ vai trò quan trọng trong việc giữ gìn bản sắc Kitô giáo, củng cố
sự gắn bó với Giáo Hội, làm sống động đời sống đức Tin, thu hút sự lưu tâm của
những người rời xa Giáo Hội và kể cả những người không tin. Do đó Phụng vụ bao
gồm lời loan báo và làm chứng quan trọng của một Hội Thánh đang cầu nguyện chứ
không chỉ hành động mà thôi”.
Đại
kết
Hành
động đại kết đòi hỏi những hành vi thích hợp: Cầu nguyện, hoán cải, thánh hóa,
và giúp đỡ lẫn nhau, trong tinh thần tôn trọng, hữu nghị, cư xử bác ái với
nhau, đoàn kết và hợp tác. Qua giáo huấn và các phương tiện truyền thông, những
thái độ này mang ý nghĩa vun trồng và khích lệ. Đối thoại là phương thế chính
yếu xây dựng đại kết. Đối thoại đòi hỏi một thái độ hiểu biết, lắng nghe, và mở
ra đón nhận người khác. Điều này sẽ giúp vượt lên trên thái độ thiếu tin cậy và
biết hợp tác với nhau để phát triển các giá trị tôn giáo, và cộng tác vào các
dự án hữu ích cho xã hội. Phải cùng nhau giải quyết những vấn đề chung”.
Mối
quan hệ với Do Thái giáo
“Cuộc
xung đột Israel-Palestine đã tác động lên những mối quan hệ giữa Kitô hữu và
người Do Thái. Tòa Thánh đã từng nhiều lần bày tỏ rõ ràng vị thế của mình, đặc
biệt là trong chuyến viếng thăm Thánh Địa của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI trong
năm 2009. Các Giáo Hội chúng ta đã khước từ thái độ bài Do thái và chống Do
Thái giáo. Những khó khăn trong mối quan hệ giữa người Ả Rập và người Do Thái
thường do xung đột chính trị gây ra. Chúng ta phân biệt giữa thực tế tôn giáo
và thực tế chính trị. Đọc Cựu Ước và đi sâu vào truyền thống của Do Thái giáo
giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tôn giáo của người Do Thái, đem lại cho chúng ta
một mặt bằng chung để có những nghiên cứu nghiêm túc, và giúp hiểu rõ hơn Tân
Ước và các truyền thống Đông phương. Những khả năng khác của sự hợp tác đang
xuất hiện trong thực tế hiện nay”.
Mối
quan hệ với người Hồi giáo
“Có
nhiều lý do để xây dựng mối quan hệ giữa Kitô hữu và người Hồi giáo. Tất cả đều
là công dân chia sẻ cùng một ngôn ngữ và văn hoá với nhau, chia sẻ cả những
niềm vui và đau khổ. Ngoài ra, các Kitô hữu có sứ mệnh sống làm chứng cho Chúa
Kitô trong xã hội của mình. Từ khi khai sinh, Hồi giáo đã tìm thấy một số nguồn
gốc chung với Kitô giáo và Do Thái giáo, như Đức Thánh Cha đã đề cập. Nền văn
chương Ả Rập-Kitô giáo cần được gia tăng giá trị. Hồi giáo không phải là đồng
nhất, mà đa dạng về niềm tin, văn hóa và tư tưởng. Những khó khăn trong quan hệ
giữa Kitô hữu và người Hồi giáo nổi lên từ thực tế là người Hồi giáo, nói
chung, không phân biệt giữa tôn giáo và chính trị… Do đó các Kitô hữu cảm thấy
không thoải mái về tình thế phi-công-dân, mặc dù họ đã sinh sống lâu đời tại
những đất nước trước đây chưa từng Hồi giáo. Chúng ta cần phải thừa nhận quyền
tự do tôn giáo và nhân quyền, bắt đầu từ sự khoan dung rồi đến công lý và bình
đẳng, dựa trên quyền công dân. Cần thanh lọc các sách giáo khoa trình bày sai
lệch về người khác, cũng như mọi nội dung xúc phạm hoặc xuyên tạc. Sẽ phải tìm
hiểu quan điểm của tha nhân nhiều hơn nữa, bằng cách hoàn toàn tôn trọng tín
ngưỡng và những cách thực hành tôn giáo khác nhau”.
Làm
chứng trong xã hội
“Tất
cả công dân các quốc gia chúng ta phải cùng nhau đối mặt với hai thách thức
lớn: hòa bình và bạo lực. Chúng ta đang sống trong khung cảnh chiến tranh và
xung đột hằng phát sinh bạo lực và đang được chủ nghĩa khủng bố toàn cầu khai
thác. Phương Tây vốn được coi là mang căn tính Kitô giáo và mọi chọn lựa của
Nhà nước vẫn được gán cho Giáo Hội. Trong khi đó các chính phủ hiện nay là hoàn
toàn thế tục, và ngày càng đi ngược lại các nguyên tắc của đức tin Kitô giáo.
Cần phải giải thích cho rõ thực tế này, và phải làm rõ thế nào là sống tinh
thần thế tục tích cực, đặng phân biệt giữa chính trị và tôn giáo... Trong các
xã hội của chúng ta, vấn đề toàn cầu hóa, hiện đại hoá và chủ nghĩa thế tục đã
có ảnh hưởng tác động đến các Kitô hữu của chúng ta... Quyền bình đẳng của công
dân được khẳng định trong tất cả các hiến pháp. Nhưng tại các quốc gia Hồi giáo
chiếm đa số, chỉ trừ vài ngoại lệ, Hồi giáo là tôn giáo nhà nước và luật sharia
được dùng làm nguồn tham khảo chủ yếu để xây dựng luật pháp. Ở một số nước hoặc
tại một số vùng, luật sharia được áp dụng cho mọi công dân... Tự do cử hành
việc thờ phượng được công nhận, nhưng không phải là quyền tự do lương tâm. Với
sự phát triển của của chủ nghĩa bảo thủ tôn giáo, các cuộc tấn công nhằm vào
các Kitô hữu ngày càng gia tăng”.
Sự
đóng góp đặc biệt và không thể thay thế của người Kitô hữu
“Sự
đóng góp cụ thể của người Kitô hữu đối với xã hội là điều không thể thay thế.
Bằng chứng từ và hành động của mình, người tín hữu Kitô làm phong phú thêm các
giá trị mà Chúa Kitô đã mang đến cho nhân loại. Trong số đó có nhiều giá trị
chung với những người Hồi giáo, vì thế việc cùng nhau cổ võ những giá trị này
là điều có thể và sẽ đem lại ích lợi chung.
Việc
dạy giáo lý phải đào tạo tín hữu thành những người công dân tích cực.
Sự
dấn thân xã hội và chính trị mà không mang giá trị Phúc Âm thì chỉ phản chứng
mà thôi...
Phục
vụ tha nhân đã là yếu tố ghi dấu ấn căn tính Kitô hữu của chúng ta. Chúng ta
không cần phải xưng mình ra.
Nhiệm
vụ hàng đầu của chúng ta là sống đức tin. Hãy để cho hành động của chúng ta nói
lên đức tin.
Nhiệm
vụ của chúng ta là sống sự thật. Hãy công bố sự thật trong tình yêu, với lòng
can đảm, và thực thi tình liên đới trong mọi tổ chức chúng ta đang có.
Chúng
ta cần sống một đức tin trưởng thành, không hời hợt bề ngoài, được duy trì và sống
động qua đời sống cầu nguyện. Để xứng đáng được tín nhiệm, chúng ta phải đồng
tâm với nhau trong lòng Hội Thánh, phải cổ võ sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu,
phải sống đạo đức một cách thuyết phục và đi vào cuộc sống. Chứng từ hùng hồn
này đòi chúng ta phải luôn giáo dục và đồng hành với các em thiếu nhi, giới trẻ
và người lớn”.
Tương
lai nào dành cho các Kitô hữu Trung Đông?
“Bối
cảnh hiện nay đang phát sinh những khó khăn và lo lắng. Được Chúa Thánh Thần
thúc đẩy và được Phúc âm hướng dẫn, chúng ta đối mặt với những khó khăn và lo
lắng trong niềm hy vọng và đặt niềm tin tưởng của người làm con vào sự Quan
phòng của Thiên Chúa. Ngày hôm nay chúng ta là “số nhỏ sót lại”, nhưng hành
động và chứng từ của chúng ta có thể làm cho chúng ta trở nên một sự hiện diện
phải kể đến... Đối mặt với nỗi chán nản đang thử thách mình, chúng ta phải nhớ
chúng ta là môn đệ của Chúa Kitô phục sinh, Đấng chiến thắng tội lỗi và sự
chết”.
Niềm
hy vọng
“Các
Giáo hội chúng ta đang cần những chứng nhân-tín hữu, cả mục tử lẫn giáo dân.
Việc loan báo Tin mừng chỉ có thể đơm hoa kết trái nếu các giám mục, linh mục,
tu sĩ và giáo dân bừng lên ngọn lửa yêu mến Chúa Kitô và lòng nhiệt thành muốn
cho nhiều người nhận biết và yêu mến Chúa.
Chúng
ta tin tưởng THĐ không phải là một sự kiện sẽ qua đi nhưng thực sự mở ra đón
nhận Thánh Thần thúc đẩy các Giáo Hội của chúng ta”.
PV