Sứ điệp Thượng Hội
Đồng Giám Mục Trung Đông
Radiovaticana 23/10/2010 15.56.46 –
Sáng thứ bẩy, 23-10-2010, Thượng HĐGM Trung Đông đã nhóm phiên họp
toàn thể thứ 14 trước sự hiện diện của ĐTC và cũng là phiên cuối cùng, và đã
thông qua chung kết 44 đề nghị. Các đề nghị này được thu gọn từ gần 200 đề nghị
do 10 nhóm nghị phụ đề ra trong các phiên họp nhóm trước đây, và được đệ trình
ĐTC vào cuối khóa họp.
Các đề nghị này đặc biệt liên quan đến sự hiện diện của các tín hữu
Kitô tại Trung Đông, tình hiệp thông của Giáo Hội và chứng tá của cac tín hữu
Kitô. Các đề nghị cũng nhắc đến sự bách hại các tín hữu Kitô và vấn đề xuất cư,
đồng thời loại bỏ trào lưu cuồng tín và cực đoan, bài Do thái, chống Do thái
giáo, thái độ quá khích và bạo lực nhân danh tôn giáo.
Phiên họp sáng hôm qua được chia làm 2 phần: phần đầu trình bày
danh sách chung kết các đề nghị, và phần hai là bỏ phiếu. Giống như các Thượng
HĐGM gần đây, ĐTC Biển Đức 16 đã cho công bố ngay nội dung các đề nghị này.
Sau phiên họp, vào lúc 1 giờ trưa, các nghị phụ cùng với các dự
thính viên và chuyên gia, cũng như các đại biểu thuộc các Giáo Hội Kitô Anh em
đã dùng bữa trưa huynh đệ với ĐTC.
Sau đây là một số đoạn nổi bật trong Sứ điệp dài mà 185 nghị phụ
của Công nghị Giám Mục này gửi đến Cộng đoàn Dân Chúa, qua đó các vị nói đến
những thách đố của Giáo Hội tại Trung Đông, và gửi những lời kêu gọi, nhắn nhủ
các các thành phần tín hữu, và cả các vị lãnh đạo chính quyền và cộng đồng quốc
tế.
Nhập đề
1. Nguyện xin ân sủng của Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta, tình yêu
của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh chị em.
THĐGM Trung Đông là một lễ Hiện Xuống mới đối với chúng tôi. “Lễ
Hiện xuống là một biến cố nguyên thủy, nhưng cũng là một năng động trường kỳ,
THĐGM là một thời điểm đặc biệt trong đó hành trình của Giáo Hội và ơn thánh
của Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống có thể được canh tân” (ĐTC Biển Đức 16, bài
giảng thánh lễ khai mạc THĐGM 10.10.2010).
Chúng tôi đến Roma gồm các Thượng Phụ và các GM thuộc các Giáo Hội
Công Giáo ở Đông phương với tất cả các gia sản tinh thần, phụng vụ, văn hóa và
giáo luật của chúng tôi, chúng tôi mang trong tâm hồn những ưu tư và những mong
đợi của các dân tộc chúng tôi.
Lần đầu tiên chúng tôi tụ họp trong THĐGM quanh ĐTC Biển Đức 16
cùng với các HY và TGM đặc trách các cơ quan trung ương Tòa Thánh, các vị Chủ
tịch các HĐGM trên thế giới có liên hệ tới các vấn đề Trung Đông, và với các
đại diện của Giáo Hội Chính Thống và các cộng đồng Tin Lành, với các khách mời
người Do thái và Hồi giáo.
Chúng tôi bày tỏ lòng biết ơn đối với ĐTC Biển Đức 16 vì sự ân cần
quan tâm và những giáo huấn soi sáng hành trình của Giáo Hội nói chung và của
các Giáo Hội Đông phương chúng tôi nói riêng, nhất là vấn đề công lý và hòa
bình. Chúng tôi cám ơn các HĐGM vì tình liên đới, hiện diện giữa chúng tôi
trong các cuộc hành hương tại các nơi thánh, và sự viếng thăm của các vị nơi
các cộng đoàn chúng tôi. Chúng tôi cám ơn các vị vì đã tháp tùng các Giáo Hội
chúng tôi trong những khía cạnh khác nhau của cuộc sống. Chúng tôi cám ơn các
tổ chức Giáo Hội đã nâng đỡ chúng tôi bằng sự trợ giúp hữu hiệu.
Chúng tôi đã cùng nhau suy tư dưới ánh sáng của Kinh Thánh và
Truyền Thống sinh động về hiện tại và tương lai của các tín hữu Kitô và các dân
tộc tại Trung Đông. Chúng tôi đã suy tư về những vấn đề thuộc miền này trên thế
giới nơi mà Thiên Chúa, trong mầu nhiệm tình thương của Ngài, đã muốn là chiếc
nôi của kế hoạch cứu độ mọi người. Thực vậy, từ miền này đã khởi sự ơn gọi của
Tổ phụ Abraham. Tại đó, Lời Thiên Chúa đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria
nhờ hoạt động của Chúa Thánh Linh. Tại đó Chúa Giêsu đã công bố Tin Mừng sự
sống và Nước Trời. Tại đó, Ngài đã chết để cứu chuộc nhân loại và giải thoát họ
khỏi tội lỗi. Tại đó, Ngài đã sống lại từ cõi chết để ban sự sống mới cho mỗi
người. Tại đó đã nảy sinh Giáo Hội, từ đó ra đi rao giảng Tin Mừng cho đến tận
bờ cõi trái đất.
Mục đích đầu tiên của THĐGM thuộc lãnh vực mục vụ. Chính vì thế
chúng tôi đã luôn nghĩ tới cuộc sống, những đau khổ và hy vọng của các dân tộc
chúng tôi và các thách đố họ phải đương đầu mỗi ngày, với xác tín rằng “Niềm hy
vọng không làm thất vọng, vì tình thương của Thiên Chúa đã được đổ tràn trong
tâm hồn chúng ta nhờ Thánh Linh được ban cho chúng ta” (Rm 5,5). Bởi vậy, chúng
tôi gửi sứ điệp này cho anh chị em rất yêu quí và chúng tôi muốn đây là một lời
kêu gọi hãy kiên vững trong đức tin, được xây dựng trên Lời Chúa, sự cộng tác
hiệp nhất và hiệp thông trong chứng tá tình thương trong mọi lãnh vực của cuộc
sống.
I. Giáo Hội tại Trung Đông: hiệp thông và chứng tá qua lịch sử
2. Tại Đông Phương đã nảy sinh cộng đoàn Kitô đầu tiên. Từ Đông
phương họ đã ra đi sau Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống để rao giảng Tin Mừng cho
toàn thế giới. Tại đó cộng đồng Kitô tiên khởi đã sống giữa những căng thẳng và
bách hại, “kiên trì trong giáo huấn của các Tông Đồ và trong tình hiệp thông,
trong việc bẻ bánh và cầu nguyện”(Cv 2,42). Tại đó các vị tử đạo đầu tiên đã
lấy máu đào tưới gội nền tảng của Giáo Hội sơ khai. Tiếp nối các vị, các ẩn sĩ
đã làm cho các sa mạc đầy hương thơm thánh thiện và niềm tin của các vị. Tại đó
các Giáo Phụ Đông phương đã tiếp tục dùng giáo huấn nuôi dưỡng Giáo Hội Đông
phương và Tây phương. Từ các Giáo Hội chúng tôi, trong những thế kỷ đầu tiên và
các thế kỷ sau đó, các thừa sai đã ra đi hướng về miền Viễn Đông và Tây phương
để mang ánh sáng của Chúa Kitô. Chúng tôi là những người thừa kế của các vị và
chúng tôi phải tiếp tục thông truyền sứ điệp của các vị cho các thế hệ mai sau.
Các Giáo Hội chúng tôi không ngừng cung cấp các thánh, các linh
mục, những người thánh hiến và phục vụ hữu hiệu trong nhiều tổ chức góp phần
xây dựng các xã hội và các đất nước chúng ta, hy sinh bản thân vì con người
được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và là người mang hình ảnh của Ngài. Một
số Giáo Hội chúng tôi ngày nay vẫn không ngừng gửi các thừa sai, mang Lời Chúa
Kitô tới các góc trời khác nhau. Công việc mục vụ, tông đồ và thừa sai ngày nay
đòi chúng ta phải nghĩ ra một nền mục vụ để cổ võ ơn gọi linh mục và tu sĩ, và
bảo đảm cho Giáo Hội mai sau.
Ngày nay chúng ta đang đứng trước một khúc quanh lịch sử: Thiên
Chúa đã ban cho chúng ta đức tin ở Đông phương chúng ta từ 2 ngàn năm nay, Ngài
kêu gọi chúng ta hãy can đảm kiên trì, chăm chủ và kiên quyết sứ điệp của của
Chúa Kitô và làm chứng cho Tin Mừng của Ngài là Tin Mừng tình thương và hòa
bình.
Những thách đố và mong đợi
3.1 Ngày nay chúng ta đang đứng trước nhiều thách đố. Thách đố đầu
tiên đến từ bản thân và các Giáo Hội của chúng ta. Điều mà Chúa Kitô yêu cầu
chúng ta là hãy đón nhận và sống đức tin của chúng ta trong mọi lãnh vực của
đời sống. Điều mà Ngài yêu cầu các Giáo Hội chúng ta là củng tố tình hiệp thông
giữa lòng mỗi Giáo Hội tự quản và giữa các Giáo Hội Công Giáo thuộc các truyền
thống khác nhau, ngoài ra, cần làm tất cả những gì có thể trong kinh nguyện và
bác ái để đạt tới sự hiệp nhất tất cả các tín hữu Kitô cũng như thi hành lời
nguyện của Chúa Kitô “Xin cho chúng được nên một, như Cha ở trong con và con ở
trong Cha, và cả họ cũng ở trong chúng ta, để thế gian tin rằng chính Cha đã
sai con” Ga 17,21).
3.2. Thách đố thứ hai đến từ bên ngoài, từ những điều kiện chính
trị và an ninh tại các quốc gia chúng ta và từ sự đa nguyên tôn giáo.
Chúng tôi đã phân tích những gì liên quan đến tình hình xã hội và
an ninh tại các đất nước chúng tôi ở Trung Đông. Chúng tôi đã ý thức về ảnh
hưởng cuộc xung đột Israel và Palestine trên toàn vùng, nhất là trên dân tộc
Palestine đang phải chịu đau khổ vì những hậu quả cuộc chiếm đóng của Israel:
tình trạng thiếu tự do đi lại, bức tường chia cách và những hàng rào quân sự,
các tù nhân chính trị, sự phá hủy nhà cửa, sự xáo trộn đời sống kinh tế và xã
hội và hàng ngàn người tị nạn. Chúng tôi đã suy tư về đau khổ và bất an mà
những người
3.3. Trong các phiên họp và các kinh nguyện, chúng tôi đã suy tư về
những đau khổ khốc liệt của dân tộc Irak. Chúng tôi đã nhớ đến các tín hữu Kitô
bị sát hại tại Irak, những đau khổ trường kỳ của Giáo Hội tại Irak, các con dân
của Giáo Hội này bị trục xuất và phân tán trên thế giới, chúng tôi cùng mang
với họ những mối lo lắng về đất nước và tổ quốc của họ.
Các nghị phụ đã bày tỏ tình liên đới với nhân dân và Giáo Hội tại
Irak và mong ước rằng những người xuất cư, bị bó buộc phải rời bỏ quê hương, có
thể được cứu giúp cần thiết tại nơi họ đến, để họ có thể trở về quê hương xứ sở
của họ và sống trong an ninh.
3.4. Chúng tôi đã suy tư về những quan hệ giữa các công dân, Kitô
hữu và tín hữu Hồi giáo. Tại đây chúng tôi muốn khẳng định rằng theo cái nhìn
Kitô của chúng ta về sự việc, một nguyên tắc tiên quyết phải điều hành các quan
hệ này là: Thiên Chúa muốn chúng ta là những tín hữu Kitô trong và cho các xã
hội chúng ta tại Trung Đông. Sự kiện sống chung giữa các tín hữu Kitô và Hồi
giáo là kế hoạch của Thiên Chúa về chúng ta và là sứ mạng cũng như ơn gọi của
chúng ta. Trong lãnh vực này, chúng ta hãy cư xử dưới sự hướng dẫn của giới răn
yêu thương và nhờ sức mạnh của Thánh Linh ở trong chúng ta.
Nguyên tắc thứ hai điều hành các quan hệ ấy là sự kiện chúng ta là
thành phần của các xã hội chúng ta. Sứ mạng của chúng ta dựa trên đức tin của
chúng ta và nghĩa vụ của chúng ta đối với các tổ quốc đòi chúng ta phải góp
phần xây dựng đất nước của mình cùng với mọi công dân Hồi giáo, Do thái và Kitô
hữu.
II. Hiệp thông và chứng tá giữa lòng các Giáo Hội Công Giáo Trung
Đông
Với các tín hữu của các Giáo Hội Trung Đông.
4.1. Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Các con là muối đất, là ánh sáng
thế gian” (Mt 5,13.14). Anh chị em tín hữu rất thân mến, sứ mạng của anh chị em
là, nhờ tin, cậy, mến, trở thành “muối” mang hương vị và ý nghĩa cho đời sống
trong các xã hội anh chị em, trở thành “ánh sáng” soi chiếu bóng đen và thành “men”
biến đổi các tâm trí. Các tín hữu Kitô đầu tiên ở
4.2. Chúng tôi chào mừng anh chị em, các tín hữu Kitô Trung Đông và
cám ơn anh chị em vì tất cả những gì anh chị em đã thực hiện trong gia đình và
xã hội, trong các Giáo Hội và quốc gia của anh chị em. Chúng tôi chào mừng sự
kiên trì của anh chị em giữa những khó khăn, cơ cực và lo lắng.
4.3. Hỡi các linh mục thân mến, là những cộng tác viên của chúng
tôi trong sứ vụ huấn giáo, phụng vụ và mục vụ, chúng tôi lập lại tình bạn và
lòng tín nhiệm của chúng tôi đối với anh em. Xin anh em tiếp tục nhiệt thành và
kiên trì thông truyền cho các tín hữu của mình Tin Mừng sự sống và Truyền thống
của Giáo Hội qua lời giảng dạy, huấn giáo, linh hướng và gương lành. Hãy củng
cố đức tin của dân Chúa để niềm tin này trở thành một nền văn minh tình thương.
Hãy ban cho họ các bí tích của Giáo Hội để họ ước mong canh tân đời sống. Hãy
tập hợp họ trong sự hiệp nhất và bác ái với ơn của Chúa Thánh Linh.
- Các tu sĩ nam nữ và những người được thánh hiến giữa đời thân
mến, chúng tôi bày tỏ lòng biết ơn đối với anh chị em và chúng tôi cùng cảm tạ
Chúa với anh chị em vì hồng ân các Lời khuyên Phúc Âm - khiết tịnh được thánh
hiến, thanh bần và vâng phục, qua đó anh chị em hiến dâng bản thân, theo Chúa
Kitô Đấng mà anh chị em muốn làm chứng về tình yêu và lòng yêu thương đặc biệt.
Nhờ những sáng kiến tông đồ khác nhau của anh chị em, anh chị em thực là một
kho tàng đích thực và là sự phong phú của các Giáo Hội chúng ta, và là một ốc
đảo tinh thần trong các giáo xứ, giáo phận và giáo điểm của chúng ta.
- Chúng tôi hiệp ý với các ẩn sĩ, đan sĩ nam nữ đã dâng hiến đời mình
cho việc cầu nguyện trong các đan viện chiêm niệm, thánh hóa những giờ trong
ngày và đêm, mang trong kinh nguyện của mình những ưu tư lo lắng và nhu cầu của
Giáo Hội. Qua chứng tá cuọc sống, anh chị em mang lại cho thế giới một dấu chỉ
hy vọng.
4.4. Hỡi các tín hữu giáo dân, chúng tôi bày tỏ lòng quí mến và
tình bạn của chúng tôi với anh chị em. Chúng tôi đánh giá cao những gì anh chị
em được thực hiện cho các gia đình và xã hội, Giáo Hội và tổ quốc của anh chị
em. Hãy kiên vững giữa những thử thách và khó khăn. Chúng tôi đầy lòng biết ơn
Chúa vì những đoàn sủng và tài năng mà Ngài đã ban cho anh chị em và qua đó,
anh chị em tham gia nhờ bí tích rửa tội và thêm sức vào công việc tông đồ và sứ
mạng của Giáo Hội, làm cho lãnh vực trần thế được thấm nhiễm tinh thần và các
giá trị Tin Mừng. Chúng tôi mời gọi anh chị em làm chứng tá bằng cuộc sống Kitô
chân chính, thực hành đạo một cách ý thức và giữ các tập quán tốt. Hãy can đảm
nói sự thật với tinh thần khách quan.
- Chúng tôi mang anh chị em trong kinh nguyện những người đang chịu
đau khổ trong thân xác, linh hồn và tinh thần, những người bị áp bức, phải rời
bỏ quê hương, bị bách hại, các tù nhân và những người đang bị cầm giữ. Hãy kết
hiệp những đau khổ của anh chị em với đau khổ của Chúa Kitô Đấng Cứu Chuộc và
hãy tìm trong thập giá của Ngài lòng kiên nhẫn và sức mạnh. Nhờ những công phúc
do các đau khổ của mình, anh chị em đạt được cho thế giới tình thương yêu từ bi
của Thiên Chúa.
- Chúng tôi chào từng người trong các gia đình Kitô của anh chị em
và với lòng quí mến, chúng tôi nhìn ơn gọi và sứ mạng của các gia đình là tế
bào sinh động của xã hội, là trường học tự nhiên về các nhân đức và các giá trị
luân lý đạo đức và nhân bản, và là Giáo Hội tại gia, dạy cầu nguyện và đức tin,
từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chúng tôi cám ơn các cha mẹ và các ông bà vì
giáo dục con cháu, noi gương thiếu nhi Giêsu “càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và
loài người” (Lc 2,52). Chúng tôi dấn thân bảo vệ gia đình qua việc mục vụ
gia đình nhờ các lớp chuẩn bị hôn nhân và các trung tâm tiếp đón, tư vấn mở cho
mọi người, nhất là các cặp vợ chồng gặp khó khăn, và chúng tôi đòi hỏi các
quyền căn bản của gia đình.
Các nghị phụ Thượng cũng gửi những lời khích lệ và bênh vực chị em
phụ nữ, các trẻ em, trào tham các vị hữu trách các trường Công Giáo và các
trung tâm giáo dục khác.
Các vị không quên các tín hữu Công Giáo đã di cư ra nước ngoài và
viết:
Gửi các tín hữu của chúng tôi ở hải ngoại
5. Xuất cư đã trở thành một hiện tượng chung. Kitô hữu, người Hồi
giáo và Do thái xuất cư và vì cùng những nguyên nhân do tình trạng bất ổn về
chính trị và kinh tế. Ngoài ra, Ktiô hữu bắt đầu cảm thấy bất an, tuy ở các cấp
độ khác nhau, tại các nước Trung Đông. Các tín hữu Kitô hãy tin tưởng nơi tương
lai và tiếp tục sống tại quê hương yêu quí của mình.
Chúng tôi chào thăm các tín hữu rất quí mến tại các nước khác nhau.
Chúng tôi xin Chúa chúc lành cho anh chị em. Chúng tôi xin anh chị em hãy giữ
cho luôn sinh động trong tâm trí và trong những quan tâm của anh chị em những
kỷ niệm về tổ quốc và Giáo Hội của anh chị em. Anh chị em có thể góp phần vào
sự tiến triển và tăng trưởng của quê hương đất nước và Giáo Hội nguyên quán
bằng lời cầu nguyện, bằng tư tưởng, các cuộc viếng thăm và bằng nhiều phương
thế khác, dù anh chị em ở xa.
Hãy luôn bảo tồn những thiện ích và đất đai mà anh chị em có tại
quê hương, đừng bội bỏ hoặc bán chúng đi. Hãy giữ gìn tài sản như một gia sản
cho anh chị em và một phần tổ quốc ấy mà anh chị em vẫn gắn bó, yêu mến và nâng
đỡ. Lãnh thổ thuộc về căn tính và sứ mạng của một người, nó là môi trường không
gian sinh tử cho những người ở lại và những người một ngày kia sẽ trở về. Đất
đai là một thiện ích công cộng, một thiện ích của cộng đoàn, một gia sản chung,
Nó không thể bị thu hẹp vào những lợi lộc cá nhân từ phía những người sở hữu
đất đai và một mình quyết định tùy ý giữ hay bỏ đi đất đai. (....)
Các nghị phụ cũng ngỏ lời với các tín hữu nhập cư làm việc tại
Trung Đông (6), và các cộng đồng Chính Thống và Tin Lành (7), việc cộng tác và
đối thoại với người Do thái (8) và Hồi giáo (9).
VI. Sự tham gia của chúng ta vào đời sống công cộng: những lời kêu
gọi chính quyền và các vị hữu trách của đất nước:
10. Chúng tôi đánh giá cao những nỗ lực của quí vị dành cho cho
công ích và phục vụ xã hội chúng ta. Chúng tôi tháp tùng quí vị bằng lời cầu
nguyện và xin Thiên Chúa hướng dẫn bước đường của quí vị. Chúng tôi ngỏ lời với
quí vị về tầm quan trọng của sự bình đẳng giữa mọi công dân. Các tín hữu Kitô
là những công dân nguyên thủy và đích thực,trung thành với tổ quốc của họ và
trung tín đối với mọi nghĩa vụ quốc gia. Điều tự nhiên là họ có thể được mọi
quyềncông dân, tự do lương tâm và phụng tự, tự do trong lãnh vực giảng dạy và
giáo dục, cũng như trong việc sử dụng các phương tiện truyền thông.
Chúng tôi thỉnh cầu quí vị hãy gia tăng nỗ lực để tái lập hòa bình
công chính và lâu bền trong toàn vùng Trung Động và để chấm dứt cuộc chạy đua
võ trang. Đó là điều dẫn tới an ninh và thịnh vượng kinh tế, chấm dứt sự xuất
huyết do việc xuất cư làm cho các đất nước chúng ta bị mất đi những sức lực
sinh tử. Hòa bình là một hồng ân quí giá mà Thiên Chúa đã ủy thác cho con người
và những “kiến tạo hòa bình sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9)
VII. Kêu gọi cộng đồng quốc tế
11. Công dân của các nước Trung Đông đang kêu gọi cộng đồng quốc tế
đặc biệt là LHQ, hãy làm việc chân thành cho mọt giải pháp hòa bình công chính
và chung kết trong vùng Trung Đông và qua việc áp dụng các nghị quyết của Hội
đồng bảo an LHĂ, để chấm dứt sự chiếm đóng trên các lãnh thổ khác nhau của Arập.
Như thế, nhân dân
Irak có thể chấm dứt những hậu quả của cuộc chiến tranh sát nhân và
tái lập an ninh bảo vệ mọi công dân của mình với tất cả mọi thành phần xã hội,
tôn giáo và chủng tộc.
Liban có thể được hưởng chủ quyền trên lãnh thổ của mình, củng cố
sự đoàn kết quốc gia và tiếp tục ơn gọi là một kiểu mẫu sống chung giữa cac tín
hữu Kitô và Hồi giáo, qua việc đối thoại giữa các nền văn hóa và tôn giáo, và
thăng tiến tự do công cộng.
Chúng tôi lên án bạo lực và khủng bố, bất kỳ từ đâu tới, và bất kỳ
chủ nghĩa cực đoan tôn giáo nào. Chúng tôi lên án mọi hình thức kỳ thị chủng
tộc, bài Do thái, bài Kitô giáo, ghét bỏ Hồi giáo và chúng tôi kêu gọi các tôn
giáo hãy đảm nhận trách nhiệm của mình trong việc thăng tiến đối thoại giữa các
nền văn hóa và văn minh trong vùng Trung Đông và trên thế giới.
Trong phần kết luận (12), các nghị phụ Thượng HĐGM Trung Đông nhìn
nhận rằng :
“Cho đến nay chúng tôi chưa làm tất cả những gì trong khả năng của
mình để sống tốt đẹp sự hiệp thông giữa các cộng đoàn. Chúng tôi đã không hoạt
động đủ để củng cố anh chị em tín hữu trong đức tin va mang lại cho họ lương
thực tinh thần mà họ cần giữa những khó khăn. Chúa mời gọi chúng ta hãy hoán
cải bản thân và tập thể.
Ngày hôm nay, chúng tôi lại đầy niềm hy vọng, can đảm và quyết tâm,
mang sứ điệp này của Thượng HĐGM và những đề nghị để cùng nhau nghiên cứu và
mang ra thực hành trong các Giáo Hội chúng ta, mỗi người theo bậc của mình.
Chúng tôi hy vọng rằng nỗ lực mới này có tính chất đại kết.
Chúng tôi gửi đến anh chị em lời kêu gọi khiêm tốn và chân thành
này để cùng nhau chúng ta chia sẻ con đường hoán cải hầu để cho mình được ơn
của Chúa Thánh Linh đổi mới và trở về cùng Thiên Chúa”.
G. Trần Đức Anh OP chuyển ý