Công bố Tông Huấn “Verbum Domini” về Lời Chúa trong đời
sống và sứ mạng của Giáo Hội
VATICAN - Sáng 11-11-2010, Tông Huấn của ĐTC Biển Đức 16, Verbum
Domini (Lời Chúa), đúc kết thành quả Thượng HĐGM năm 2008, đã được công
bố tại Roma.
Văn kiện đã được giới thiệu với giới báo chí trong cuộc họp
báo tại Phòng Báo Chí Tòa Thánh, với sự hiện diện của ĐHY Marc Ouellet, người
Canada, Tổng trưởng Bộ Giám Mục, ĐHY Tân cử Gianfranco Ravasi, Chủ tịch Hội
đồng Tòa Thánh về văn hóa, và Đức TGM Nikola Eterovic, người Croát, Tổng thư ký
Thượng HĐGM Thế giới.
Tông Huấn dài gần 200 trang với 124 đoạn: ngoài phần nhập
đề và kết luận, được chia làm 3 phần tương ứng với Chủ đề Thượng HĐGM thế giới
hồi tháng 10 năm 2008 về đề tài “Lời Chúa trong đời sống và sứ mạng của Giáo
Hội”:
- Phần I nói về Lời Chúa: Thiên Chúa nói, sự đáp trả của
con người với Thiên CHúa, và tiếp đến là sự chú giải Kinh Thánh trong Giáo Hội.
- Phần II: Lời Chúa trong Giáo Hội. Giáo Hội tiếp nhận Lời
Chúa; Phụng vụ là nơi ưu tiên của Lời Chúa; Lời Chúa trong đời sống Giáo Hội:
việc mục vụ kinh thánh, giảng thuyết, việc đọc và cầu nguyện với Lời Chúa,
lectio divina..
- Phần III: Lời Chúa cho thế giới. Phần này nhấn mạnh đến
sứ vụ truyền giáo của Hội Thánh, loan báo Lời cứu độ của Chúa cho thế giới; Lời
Chúa và sự dấn thân của Giáo Hội trong thế giới: giới trẻ, người di dân, người
nghèo; Lời Chúa và văn hóa, Lời Chúa và việc đối thoại liên tôn.
Cùng với Văn bản Tông Huấn Lời Chúa, Văn phòng Tổng thư ký
Thượng HĐGM thế giới cũng công bố một bản tóm lược nội dung văn kiện giáo huấn
này của ĐTC.
Tóm lược Tông Huấn
“Tái khám phá vị trí trung tâm của Lời Chúa” trong đời sống
bản thân và Giáo Hội, tiếp đến là “sự cấp thiết và sự tươi đẹp” của việc loan
báo Lời Chúa để cứu độ nhân loại như “những chứng nhân đầy xác tín và đáng tin
cậy của Chúa Phục Sinh”: đó là tổng hợp sứ điệp của ĐTC Biển Đức 16 trong Tông
Huấn hậu Thượng HĐGM “Verbum Domini”, Lời Chúa, đón nhận những suy tư và đề
nghị được THĐGM nên lên trong khóa họp tại Vatican hồi tháng 10 năm 2008 về đề
tài “Lời Chúa trong đời sống và sứ mạng của Giáo Hội”. Văn kiện, dài gần 200
trang, là một lời kêu gọi tha thiết được ĐGH gửi tới các vị mục tử, các thành
viên đời sống thánh hiến và các giáo dân, “ngày càng quen thuộc hơn với Kinh
Thánh”, và không bao giờ quên rằng “nơi căn cội của mọi linh đạo Kitô chân
chính và sống động đều có Lời Chúa được loan báo, đón nhận, cử hành và suy niệm
trong Giáo Hội” (121).
ĐTC Biển Đức 16 khai triển những suy tư của ngài đi từ Lời
Tựa của Tin Mừng theo Thánh Gioan đặt chúng ta đứng trước “mầu nhiệm Thiên
Chúa, Đấng tỏ mình ra qua hồng ân Lời Ngài.. Lời của Ngài đã nhập thể (Ga
1,14). Đó là tin mừng” (1). ĐGH quả quyết: “Trong một thế giới thường cảm thấy
Thiên Chúa như thừa thãi và xa lạ, không có điều ưu tiên nào lớn hơn ưu tiên
này: đó là tái mở ra cho con người ngày nay cánh cửa dẫn đến Thiên Chúa, vị
Thiên Chúa đang nói và thông truyền cho chúng tình thương của Ngài để chúng ta
được sự sống dồi dào” (2).
ĐTC giải thích rằng “Thiên Chúa nói và can thiệp trong lịch
sử để mưu ích cho con người”, và chỉ khi nào con người cởi mở đối thoại với
Đấng Sáng Tạo nên mình, thì mới có thể hiểu được bản thân và thỏa mãn những
khát vọng sâu xa nhất của mình. “Thực vậy, - Tông Huấn viết - Lời Chúa không
chống lại con người, không bóp nghẹt những ước muốn chân chính của con người,
trái lại Lời Chúa soi sáng, thanh tẩy và đưa những ước muốn ấy đến chỗ viên
mãn.. Rất tiếc là trong thời đại chúng ta ngày nay, có một ý tưởng rất được phố
biến, nhất là tại Tây Phương, cho rằng Thiên Chúa xa lạ với đời sống và các vấn
đề của con người và hơn nữa, sự hiện diện của Chúa có thể đe dọa quyền tự quyết
của con người”. Trong thực tế, “chỉ có Thiên Chúa mới đáp ứng khát vọng trong
tâm hồn mỗi người!”.
Đối với ĐGH, “về phương diện mục vụ, điều rất quan trọng là
trình bày Lời Chúa trong khả năng của Lời này đối thoại với các vấn đề của con
người trong đời sống thường nhật.. Việc mục vụ của Giáo Hội phải cho thấy rõ
Thiên Chúa lắng nghe những nhu cầu và tiếng kêu của con người như thế nào” để
mang lại cho con người “hạnh phúc vĩnh cửu trọn vẹn” (22-23). Theo nghĩa đó,
cần giáo dục các tín hữu nhìn nhận rằng “căn cội của tội lỗi chính là không
lắng nghe Lời Chúa và không đón nhận, trong Chúa Giêsu, Lời của Thiên Chúa, ơn
tha thứ mở cho chúng ta ơn cứu độ” (26).
Văn kiện nhắc lại Công đồng chung Vatican 2 đã đẩy mạnh
việc tái khám phá Lời Chúa trong đời sống của Giáo Hội (3), và tái khẳng định
sự tôn kính sâu xa đối với Kinh Thánh, “tuy rằng đức tin Kitô không phải là một
“tôn giáo của Sách”: Kitô giáo là “tôn giáo của Lời Chúa”, không phải “một lời
được viết ra và câm nín, nhưng là Lời nhập thể và sống động” (7), dưới ánh sáng
của Lời này, “bí nhiệm về thân phận của con người được sáng tỏ chung cục” (6).
Thực vậy, Chúa Giêsu Kitô là “Lời chung kết của Thiên Chúa”: Vì thế, “chúng ta
không nên chờ đợi một mạc khải công khai nào khác trước khi Chúa tỏ hiện trong
vinh quang”. Trong bối cảnh ấy, “cần giúp các tín hữu phân biệt rõ ràng Lời
Chúa khác với những mạc khải tư”, vai trò của các mạc khải này “không phải là.
. bổ túc Mạc Khải chung cục của Chúa Kitô, nhưng là giúp sống mạc khải ấy một
cách trọn vẹn hơn trong một thời điểm lịch sử nào đó”. Mạc khải tư là “một trợ
giúp được ban tặng, nhưng không bắt buộc phải sử dụng mạc khải ấy” (14).
Giải thích Lời Chúa
Về việc giải thích đúng đắn Lời Chúa, ĐGH nhấn mạnh rằng “không
có sự hiểu biết chân chính nào về Mạc khải Kitô giáo ở ngoài hoạt động của Chúa
Thánh Linh” (15), như thánh Giêrônimô đã nói: “Chúng ta không thể hiểu được
Kinh Thánh nếu không có sự trợ giúp của Chúa Thánh Linh, Đấng linh hứng Kinh
Thánh” (16): đây là một sự hiểu biết tăng trưởng với thời gian, nhờ sự trợ giúp
của Thánh Linh, nhờ Truyền Thống sinh động của Giáo Hội và Huấn Quyền của Hội
Thánh, Huấn Quyền này có thẩm quyền “giải thích chính thức Lời Chúa, được viết
ra hoặc truyền lại” (33). “Môi trường nguyên thủy để giải thích Kinh Thánh là
đời sống Giáo Hội”, xét vì “không có lời ngôn sứ nào tùy thuộc sự giải thích
của tư nhân” (29); vả lại, thánh Giêrônimô luôn nhắc nhở rằng “chúng ta không
bao giờ đọc Kinh Thánh một mình. Chúng ta gặp quá nhiều cánh cửa khép kín và dễ
rơi vào sai lầm” (30).
Nghiên cứu Kinh Thánh
ĐGH phân tính hiện tình nghiên cứu Kinh Thánh và nhận xét
rằng “Phần lớn hiệu năng mục vụ trong hoạt động của Giáo Hội và đời sống thiêng
liêng của các tín hữu tùy thuộc quan hệ phong phú giữa khoa chú giải và thần
học” (31). ĐGH nhìn nhận sự đóng góp quan trọng của “khoa chú giải phê bình
lịch sử” và các phương pháp khác (32), nhưng ngài cũng cảnh giác về nguy cơ lớn
ngày nay do “một thứ chủ thuyết nhị nguyên” giữa khoa chú giải Kinh thánh và
thần học: một bên là khoa chú giải chỉ giới hạn trong vào phương pháp phê bình
lịch sử, và trở thành một “khoa chú giải bị tục hóa”, trong đó tất cả đều bị
thu hặp vào “yếu tố phàm nhân”, đến độ phủ nhận “lịch sử tính của các yếu tố
thần thiêng”; và bên kia là một nền thần học “có xu hướng thiêng liêng hóa ý
nghĩa của Kinh Thánh và không tôn trọng đặc tính lịch sử của mạc khải”.
ĐGH cầu mong có sự “hiệp nhất giữa hai cấp độ” giải thích,
xét cho cùng nó đòi phải có “một sự hòa hợp giữa đức tin và lý trí”, làm sao để
đức tin không bao giờ trở thành một thứ “duy tín”, với hậu quả là người ta đọc
Kinh Thánh theo chủ thuyết duy căn (fondamentaliste) - hiểu Kinh Thánh theo
nghĩa đen - và ngoài ra cần có một lý trí “tỏ ra cởi mở, không tiên thiên phủ
nhận tất cả những gì vượt quá mức độ của lý trí (33-36). Vì thế, ĐTC Biển Đức
16 mong muốn rằng trong lãnh vực giải thích Sách Thánh, “sự nghiên cứu được
tiến triển” mang lại thành quả cho khoa Kinh Thánh và cho đời sống thiêng liêng
của các tín hữu” (19) và đồng thời có thể mở rộng cuộc đối thoại giữa các vị
mục tử, các nhà chú giải và thần học (45) với ý thức rằng, trong lãnh vực này, “Thánh
Truyền, Kinh Thánh và Huấn quyền của Hội Thánh, do sự xếp đặt rất khôn ngoan
của Thiên Chúa, đều có liên hệ mật thiết với nhau đến độ không thực tại nào
hiện hữu mà không có thực tại khác” (47).
Ngoài ra Tông Huấn nhấn mạnh rằng ta “chỉ có thể hiểu Kinh
Thánh nếu sống Kinh Thánh” (47): thực vậy “sự giải thích Kinh Thánh sâu xa nhất
đến từ những người để cho Lời Chúa uốn nắn mình”, nghĩa là từ các thánh. “Học
hỏi với các ngài, đó là một con đường chắc chắn để thực hiện một sự giải thích
Lời Chúa một cách sống động và hữu hiệu” (48-49). Và nhắc đến Mẹ Maria, “Hình
ảnh của Giáo Hội lắng nghe Lời Chúa nhập thể trong Mẹ”, ĐGH nhắn nhủ “các học
giả ngày càng đào sâu quanhệ giữa Thánh Mẫu học và thần học về Lời Chúa” (27).
Kinh Thánh và đại kết, liên tôn
Tông Huấn cũng nhấn mạnh “vị thế trung tâm của những nghiên
cứu Kinh Thánh trong việc đối thoại đại kết”, đánh giá cao sự cổ võ “những buổi
cử hành đại kết lắng nghe Lời Chúa” vì “việc cùng lắng nghe Kinh Thánh thúc
đẩy. . đối thoại bác ái và làm tăng trưởng cuộc đối thoại về chân lý” (46).
ĐGH tái khẳng định rằng “mạc khải Cựu Ước tiếp tục có giá
trị đối với các tín hữu Kitô chúng ta” vì đó Lời Chúa. Ngài viết: “Căn cội của
Kitô giáo ở trong Cựu Ước và Kitô giáo luôn nuôi dưỡng mình nhờ căn cội ấy”
(40). Từ đó có một “quan hệ đặc biệt giữa các tín hữu Kitô và Do thái, một quan
hệ không bao giờ có thể bị quên lãng” và phải dẫn đưa các tín hữu Kitô đến một “thái
độ quí mến dân Do thái”. “Một lần nữa tôi muốn tái khẳng định rằng cuộc đối
thoại với người Do thái là điều quí giá dường nào đối với Giáo Hội” (43).
Đàng khác, “Giáo Hội cũng nhìn nhận như thành phần thiết
yếu trong việc loan báo Lời Chúa việc gặp gỡ, đối thoại và cộng tác với mọi
người thiện chí, đặc biệt là những người thuộc các truyền thống tôn giáo khác
của nhân loại, tránh những hình thức tôn giáo pha trộn lẫn nhau và thái độ duy
tương đối (117).
Thượng HĐGM nhắc lại rằng Giáo Hội nhìn người “Hồi giáo với
lòng quí chuộng, họ là những người cũng nhìn nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa
duy nhất”, và mong muốn có sự phát triển đối thoại dựa trên sự tín nhiệm lẫn
nhau, đào sâu những giá trị như “tôn trọng sự sống”,”các quyền bất khả nhượng
của người nam và người nữ cũng như sự bình đẳng nam nữ”, và sự đóng góp của các
tôn giáo cho công ích, để ý đến “sự phân biệt giữa lãnh vực xã hội chính trị và
lãnh vực tôn giáo” (119). Vì thế, ĐGH bày tỏ “sự tôn trọng của Giáo Hội đối với
các tôn giáo cổ kính và những truyền thống tinh thần của các đại lục”, “chứa
đựng những giá trị có thể tạo điều kiện rất dễ dàng cho sự cảm thông giữa con
người và các dân tộc với nhau” (119). Nhưng ngài cũng nhấn mạnh rằng “cuộc đối
thoại sẽ không được phong phú nếu nó không bao gồm cả. . tự do tuyên đứng tôn
giáo của mình công khai hoặc riêng tư cũng như tự do lương tâm” (120).
Lời Chúa và phụng vụ
Tông Huấn cũng bàn đến tương quan giữa Lời Chúa và phụng
vụ: “đây là lãnh vực ưu tiên trong đó Thiên Chúa.. nói với dân Ngài ngày nay,
đang lắng nghe và đáp lại”; “Khi ta đọc Kinh Thánh trong Giáo Hội” thì chính
Chúa Kitô “nói” (52). Nhưng cần giáo dục các tín hữu hiểu sự thống nhất giữa
Lời Chúa và Bí tích trong mầu nhiệm Giáo Hội. Thực vậy, “trong quan hệ giữa Lời
Chúa và các cử chỉ bí tích, hoạt động của chính Thiên Chúa được biểu lộ dưới
hình thức phụng vụ trong lịch sử nhờ “tính chất đào luyện của chính Lời Chúa.
Quả thế, Trong lịch sử cứu độ, không có sự tách biệt giữa điều Thiên Chúa nói
và làm.. Cũng vậy, trong hoạt động phụng vụ, chúng ta đứng trước Lời Chúa thực
hiện điều mà Chúa nói” (53).
ĐGH tái yêu cầu “chăm sóc kỹ lưỡng hơn việc công bố Lời
Chúa”: các độc viên “phải thực sự có khả năng và được chuẩn bị thi hành công
tác này. Họ cần được chuẩn bị về mặt Kinh Thánh và phụng vụ cũng như về mặt kỹ
thuật” (58).
Tiếp đến ĐGH cũng kêu gọi cải tiến “phẩm chất các bài giảng”:
cần phải tránh những bài giảng chung chung và trừu tượng, làm lu mờ đặc tính
đơn sơ của Lời Chúa, cũng như tránh những điều rông rài thu hút sự chú ý về
giảng viên thay vì vào trong tâm sứ điệp Tin Mừng. Phải giúp các tín hữu thấy
rõ rằng điều mà vị giảng thuyết quan tâm đó là trình bày Chúa Kitô, và Ngài
phải ở trung tâm của mọi bài giảng” (59). Vì thế, ĐGH tái khẳng định nên soạn
một cuốn Cẩm Nang dọn bài giảng “để giúp các thừa tác viên chu toàn nghĩa vụ
của mình một cách tốt đẹp hơn” (60).
Ngoài ra, Tông Huấn cũng bày tỏ mong ước Phụng vụ các Giờ
Kinh “ngày càng được phổ biến nơi Dân Chúa.. nhất là việc đọc Kinh Ngợi Khen và
Kinh Chiều. Sự phổ biến này giúp các tín hữu quen thuộc với Lời Chúa (62).
Lấy lại một số bài phát biểu của các nghị phụ, ĐGH nhấn
mạnh giá trị của sự thinh lặng trong các buổi cử hành: thực vậy, “Lời Chúa chỉ
có thể được công bố và lắng nghe trong thinh lặng, bên ngoài cũng như trong nội
tâm. Thời nay không tạo điều kiện thuận lợi cho sự hồi niệm và nhiều khi người
ta có cảm tượng có một sự sợ hãi phải rời bỏ các phương tiện truyền thông đại
chúng, dù là trong một lúc mà thôi. Vì thế,ngày nay cần giáo dục Dân Chúa về
giá trị của sự thinh lặng” (66). Rồi Tông Huấn cũng nêu lên một số lời nhắn
nhủ: “đừng bao giờ lơ là vấn đề âm thanh âm hưởng, trong sự tôn trọng các qui
luật phụng vụ và kiến trúc” để giúp các tín hữu chú ý hơn” (68); “không bao giờ
được thay thế các bài đọc rút từ Kinh Thánh bằng những văn bản khác, dù chúng
có ý nghĩa thế nào đi nữa về phương diện mục vụ hoặc tu đức” (69); cần cổ võ
những bài thánh ca lấy hứng từ Kinh thánh, biết diễn tả vẻ đẹp của Lời Chúa nhờ
một sự hòa hợp giữa lời và nhạc.” Về vấn đề này cũng cần nhắc lại tầm quan
trọng của nhà bình ca (70); sau cùng, “nên đặc biệt chú ý đến những người khiếm
thị và khiếm thính (71).
Dân Chúa và Kinh Thánh
ĐGH cùng với các nghị phụ nồng nhiệt mong ước có một “vận
hội mới về lòng yêu mến của toàn thể mọi thành phần Dân Chúa đối với Kinh
Thánh, đến độ từ sự chăm chỉ đọc và cầu nguyện với Kinh Thánh họ đào sâu chính
quan hệ với Chúa Giêsu” (72). Các vị yêu cầu tăng cường việc mục vụ Kinh Thánh,
việc mục vụ này cũng có giá trị đáp trả hiện tượng lan tràn của các giáo phái
vốn phổ biến một sự đọc Kinh Thánh một cách xuyên tạc và lợi dụng, đồng thời
cần cổ võ sự phổ biến các cộng đoàn nhỏ, trong đó người ta thăng tiến việc huấn
luyện, cầu nguyện và hiểu biết về Kinh Thánh theo đức tin của Giáo Hội” (73).
Cần có một “sự huấn luyện thích hợp dành cho các tín hữu
Kitô, đặc biệt là các giáolý viên, duy trì sự chú ý đến việc tông đồ Kinh Thánh
(75). Toàn thể Dân Chúa, bắt đầu từ các GM, phải tái khởi hành từ việc lắng
nghe Lời Chúa. ĐGH đặc biệt bày tỏ lòng biết ơn đối với các đan sĩ nam nữ các
dòng chiêm niệm, “qua đời sống cầu nguyện, lắng nghe và suy niệm Lời Chúa, đang
nhắc nhở cho chúng ta rằng con người không phải chỉ sống bằng cơm bánh, nhưng
còn bằng mọi lời xuất phát từ miệng Thiên Chúa”.
Về phần các gia đình, Thượng HĐGM mong ước rằng mỗi nhà đều
có cuốn Kinh Thánh, giữ gìn một cách xứng đáng, để có thể đọc và dùng để cầu
nguyện”. Tông Huấn cũng nêu cao thiên tài của nữ giới trong việc nghiên cứu
Kinh Thánh và vai trò không thể thiếu được của phụ nữ trong gia đình, trong
việc giáo dục, dạy giáo lý và trong việc thông truyền các giá trị”. Văn kiện
mời gọi thực hành lectio divina, và cổ võ những kinh nguyện kính Đức Mẹ như
kinh Mân Côi, kinh truyền tin, giúp suy niệm các mầu nhiệm thánh được kể lại
trong Kinh Thánh. Văn kiện cũng trưng dẫn một số kinh nguyện cổ kính của
Đôngphương Kitô giáo, như thánh ca Đức Mẹ Akathistos và Parklesis (78-88).
Kinh Thánh và truyền giáo
ĐGH nhấn mạnh lời kêu gọi của Thượng HĐGM “hãy củng cố và
tăng cường ý thức truyền giáo trong Giáo Hội”, với ý thức rằng “điều được mạc
khải trong Chúa Kitô thực là ơn cứu độ tất cả mọi dân tộc”; “con người cần niềm
Hy Vọng cao cả để có thể sống hiện tại của mình, niềm hy vọng lớn lao là một vị
Thiên Chúa có một khuôn mặt loài người và Ngài yêu thương chúng ta cho đến cùng”
(Ga 13,1). Vì thế Giáo Hội tự bản chất là truyền giáo. Chúng ta không thể riêng
giữ cho mình những lời sự sống đời đời được ban cho chúng ta trong cuộc gặp gỡ
với Chúa Giêsu Kitô: những lời ấy dành cho tất cả mọi người và cho mỗi người.
Mỗi người thời nay dù biết hay không, họ đang cần việc loan báo ấy.. Chúng ta
có trách nhiệm thông truyền điều mà chúng ta đã từng nhận lãnh” (91-92). “Vì
thế, việc truyền giáo của Giáo Hội không thể bị coi như một điều tùy ý hoặc
thêm vào cho đời sống Giáo Hội.. Đây không phải là loan báo một lời an ủi,
nhưng là một lời có sức xâm nhập mạnh mẽ, kêu gọi hoán cải, làm cho cuộc gặp gỡ
với Chúa có thể diễn ra, và nhờ đó một nhân loại mới được triển nở” (93).
Tông Huấn tái khẳng định rằng sứ mạng loan báo Lời Chúa là
nghĩa vụ của tất cả mọi tín hữu đã chịu phép rửa. “Không Kitô hữu nào có thể
cảm thấy xa lạ với trách nhiệm ấy”. “Ý thức này phải được khơi dậy trong mỗi
gia đình, giáo xứ, cộng đoàn, hiệp hội và phong trào của Giáo Hội”. Đặc biệt
Thượng HĐGM biết ơn và nhìn nhận rằng các phong trào của Giáo Hội và các cộng
đoàn mới, trong Giáo Hội, là một lực lượng mạnh mẽ để rao giảng Tin Mừng thời
nay, thúc đẩy phát triển những hình thức mới để loan báo Tin Mừng” (94).
“Giáo Hội không thể chỉ giới hạn vào một thứ mục vụ bảo
trì, dành cho những người đã biết Tin Mừng của Chúa Kitô. Đà tiến truyền giáo
là một dấu chỉ rõ rật về sự trưởng thành của một cộng đoàn Giáo Hội”. Cần có
một “sự loan báo minh thị”: Giáo Hội phải đi tới mọi người với sức mạnh của
Thánh Linh (Xc 1 Cr 2,5) và tiếp tục hành động như ngôn sứ bảo vệ quyền và tự
do của con người được lắng nghe Lời Chúa, tìm những phương thế hữu hiệu nhất để
công bố Lời Chúa, cả khi có nguy cơ bị bách hại. Giáo Hội mắc nợ đối với tất cả
mọi người, món nợ loan báo Lời cứu độ”: với bao nhiêu dân tộc chưa biết Lời
Chúa và những người cần tái được rao giảng Lời Chúa với sức thuyết phục nhờ
những chứng nhân đáng tin nhiệm của Tin Mừng”. ĐGH cảm động nghĩ tới tất cả
những người bị bách hại vì Chúa Kitô, tới “bao nhiêu anh chị em ngày càng quên
mình vì loan báo chân lý tình thương của Chúa được mạc khải cho chúng ta trong
Chúa Kitô chịu đóng đanh và sống lại”.
Đặc biệt ĐTC Biển Đức viết: “Chúng tôi thân ái liên đới sâu
xa với các tín hữu thuộc tất cả các cộng đoàn Kitô ở Á, Phi. . ngày nay đang có
nguy cơ mất mạng hoặc bị gạt ra ngoài lề xã hội vì đức tin.. Đồng thời chúng
tôi không ngừng lên tiếng để các chính phủ bảo đảm cho tất cả mọi người quyền
tự do lương tâm và tôn giáo, và cả quyền được công khai làm chứng về đức tin
của mình” (95-98).
Kinh Thánh và sự dấn thân xã hội
Ngoài ra, ĐTC Biển Đức 16 nhắc nhở rằng việc lắng nghe Lời
Chúa không dẫn sự trốn chạy khỏi thế gian nhưng đưa tới sự dấn thân mạnh mẽ hơn
để làm cho thế giới trẻ nên công bằng và dễ ở hơn. Chính Lời Chúa tố giác rõ
ràng những bất công và thăng tiến tình liên đới và bình đẳng. Sự dấn thân cho
công lý và biến đổi thế giới là yếu tố cấu thành công cuộc rao giảng Tin Mừng.
Hẳn thật, Giáo Hội không có nghĩa vụ trực tiếp kiến tạo một xã hội công bằng
hơn, cho dù Giáo Hội có quyền và nghĩa vụ can thiệp vào những vấn đề luân lý và
đạo đức liên quan tới ích lợi của con người và các dân tộc. Nghĩa vụ chủ yếu
của giáo dân, được giáo dục trong trường của Tin Mừng, là can thiệp trực tiếp
vào hoạt động xã hội và chính trị, thăng tiến các quyền của mỗi người, dựa trên
luật tự nhiên, được ghi khắc trong tâm khảm con người, và những quyền ấy có
tính chất “phổ quát, bất khả vi phạm và bất khả nhượng”. Lời Chúa cũng là “một
nguồn mạch hòa giải và an bình”. ĐGH quả quyết: “Một lần nữa tôi muốn tái khẳng
định rằng tôn giáo không bao giờ có thể biện minh cho sự bất bao dung hoặc
chiến tranh. Không thể sử dụng bạo lực nhân danh Thiên Chúa!” (99-103).
Người trẻ, di dân và người nghèo
Tiếp đến Tông Huấn đề cập đến vấn đề loan báo cho người
trẻ, người di dân, người đau khổ và người nghèo. Sự quan tâm đến giới trẻ bao
gồm can đảm loan báo rõ ràng.. Họ cần những chứng nhân và thầy dậy, đồng hành
và hướng dẫn họ yêu thương và để họ thông truyền Tin Mừng nhất là cho những
người đồng lứa tuổi, và qua đó họ trở thành những người loan báo một cách chân
chính và đáng tin cậy”.
Các phong trào di dân “mang lại cơ hội mới mẻ để phổ biến
Lời Chúa. Về vấn đề này các Nghị phụ đã quả quyết rằng người di dân có quyền
được nghe Lời Huấn Giáo được đề nghị cho họ chứ không áp đặt. Nếu họ là Kitô
hữu, họ cần được giúp đỡ thích hợp về mục vụ để củng cố đức tin.
Tiếp đến, Tông Huấn khuyên nhủ nên gần gũi người đau khổ: “Lời
Chúa cũng tỏ lộ cho chúng ta những hoàn cảnh này, được sự dịu dàng của Thiên
Chúa bao trùm một cách huyền nhiệm. Đức tin nảy sinh từ cuộc gặp gỡ với Lời
Chúa giúp chúng ta coi đời sống con người là đáng sống cả khi đời sống ấy bị
suy yếu”. Sau cùng, là những người nghèo, “việc phục vụ bác ái không bao giờ
được thiếu trong các Giáo Hội chúng ta, nó phải luôn gắn liền với việc loan báo
Lời Chúa và việc cử hành các mầu nhiệm thánh. Giáo Hội không bao giờ được làm
người nghèo thất vọng: “Các vị mục tử được kêu gọi lắng nghe họ, học hỏi nơi
họ, hướng dẫn họ trong đức tin và khích lệ họ trở thành những người kiến tạo
lịch sử của họ”. Và Tông huấn cũng nói đến mối quan hệ giữa Lời Chúa và việc
bảo tồn công trình sáng tạo của Chúa (104-108).
Kinh Thánh và văn hóa
Tông Huấn kêu gọi “mở một cuộc gặp gỡ mới mẻ giữa Kinh
Thánh và các nền văn hóa”. ĐGH viết: “Tôi muốn lập lại với mọi giới văn hóa
rằng họ không có gì phải sợ khi cởi mở đối với Lời Chúa; Lời Chúa không bao giờ
phá hủy văn hóa đích thực, nhưng là một sự kích thích trường kỳ để tìm kiếm
những kiểu diễn tả nhân bản ngày càng thích hợp và ý nghĩa hơn. Ngoài ra, cần
phải hoàn toàn phục hồi ý nghĩa Kinh Thánh như một bộ luật lớn về văn hóa. Tông
Huấn mong muốn có sự cổ võ kiến thức về Kinh thánh trong các trường học và đại
học, vượt thắng những thành kiến cũ và mới. Văn kiện bày tỏ sự quí chuộng, và
ngưỡng mộ của toàn thể Giáo Hội đối với những nghệ sĩ say mê thẩm mỹ, để cho
mình được Kinh Thánh gợi hứng, giúp nhận thức các thực tại vô hình và vĩnh cửu
trong không gian và thời gian. Tông huấn kêu gọi sự dấn thân rộng rãi và có
phẩm chất cao hơn trong giới truyền thông để nổi bật tôn nhan Chúa Kitô và để
tiếng Ngài được lắng nghe. Đặc biệt Tông Huấn nhấn mạnh vai trò ngày càng gia
tăng của Internet, đây là một diễn đàn mới trong đó Tin Mừng vang dội, nhưng
với ý thức rằng thế giới tiềm thể không bao giờ có thể thay cho thế giớ thực
tại (109-113).
Khi nói về việc rao giảng Tin Mừng cho các nền văn hóa, ĐGH
nhận xét rằng Lời Chúa biểu lộ một tính chất liên văn hóa sâu xa, có khả năng
gặp gỡ và làm cho các nền văn hóa gặp gỡ nhau.. Nhưng “sự hội nhập văn hóa
không được lẫn lộn với những tiến trình thích ứng hời hợt và càng không bị lẫn
lộn với sự hòa đồng làm mất đi tính chất độc đáo của Tin Mừng để làm cho Tin
Mừng dễ được chấp nhận hơn. “Lời Chúa biến đổi những giới hạn của của mỗi nền
văn hóa tạo nên sự hiệp thông giữa các dân tộc khác nhau, mời gọi họ đi tới một
tình hiệp thông bao quát, thực sự là phổ quát, nối kết tất cả mọi người, hiệp
nhất tất cả làm cho chúng ta trở thành anh em với nhau” (114-116)
ĐGH kết luận rằng thời đại chúng ta ngày nay ngày càng phải
trở thành một thời đại tái lắng nghe Lời Chúa và tái truyền giảng Tin Mừng, vì
ngày nay, Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn còn nói với chúng ta: “Các con hãy đi khắp
thế gian, và rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15). Khi loan bao
Lời Chúa trong sức mạnh của Chúa Thánh Linh, chúng ta cũng muốn thông truyền
một nguồn mạch vui mừng đích thực, không phải niềm vui hời hợt và chóng qua,
nhưng là niềm vui nảy sinh từ ý thức rằng chỉ có Chúa Giêsu mới có lời ban sự
sống đời đời (Ga 6,68)” (121-124)
LM Trần Đức Anh OP chuyển ý
LM Trần Đức Anh OP