Tường thuật ngày thứ hai chuyến công du mục vụ của Đức Thánh Cha tại Bồ Đào
Nha
Thứ tư
12-5-2010 là ngày thứ hai trong chuyến tông du bốn ngày của Đức Thánh Cha tại
Bồ Đào Nha. Đức Thánh Cha đã có bốn sinh hoạt chính: lúc 10 giờ sáng ngài gặp
gỡ giới văn hóa tại Trung tâm văn hóa Belém trong thủ đô Lisboa. Buổi trưa Đức
Thánh Cha hội kiến với Thủ tướng Bồ Đào Nha tại Tòa Sứ Thần Tòa Thánh. Ban
chiều ngài từ giã Lisboa để đi Fatima. Tại đây sau khi thăm Nhà nguyện hiện ra,
Đức Thánh Cha chủ sự buổi hát kinh chiều với các linh mục, Phó tế chủng sinh và
tu sĩ nam nữ tại nhà thờ Chúa Ba Ngôi. Ban tối Đức Thánh Cha chủ sự buổi làm
phép nến và lần hạt Mân côi kính Đức Mẹ.
Lúc 7 giờ 30 sáng thứ tư 12-5-2010 Đức Thánh Cha đã cử hành thánh lễ riêng tại
nhà nguyện của Tòa Sứ Thần trong thủ đô Lisboa. Sau khi dùng điểm tâm, lúc 9
giờ 45 Đức Thánh Cha đã đi xe đến Trung tâm văn hóa Belém cách Tòa Sứ Thần 9
cây số để gặp gỡ 1.400 người thuộc thế giới văn hóa, gồm các nhà chính trị,
kinh tế, trí thức và văn nghệ sĩ.
Trung tâm văn hóa nằm trong khu phố Belém của thủ đô Lisboa. Tòa nhà này đã
được xây vào đầu thập niên 1990 và là trụ sở của Hội đồng chủ tịch Cộng đồng
kinh tế Âu châu cho tới năm 1993, sau đó trở thành trung tâm văn hóa và diễn
thuyết. Tại đây có một trung tâm triển lãm lớn và một viện bảo tàng trưng bầy
các mẫu y phục lên cho tới năm 1937.
Đức Cha Manuel Clemente, Giám Mục Porto, Chủ tịch Ủy ban văn hóa của Hội Đồng
Giám Mục Bồ Đào Nha, đã ngỏ lời chào mừng Đức Thánh Cha. Tiếp đến là bài chào
mừng của đạo diễn Manoel de Oliveira, đại diện cho giới văn hóa.
Ngỏ lời với các nhà văn hóa Đức Thánh Cha tái khẳng định tình bạn, lòng qúy
trọng của riêng ngài và của Giáo Hội đối với giới văn hóa và sứ mệnh cao cả và
quan trọng của họ đối với nhân loại. Đức Thánh Cha cám ơn Ủy ban văn hóa của
Hội Đồng Giám Mục và Bộ Văn Hóa Bồ Đào Nha đã tổ chức buổi gặp gỡ này cũng như
các giới văn hóa về sự tiếp đón nồng nhiệt dành cho ngài.
Lời chào của đạo diễn Manoel de Oliveira cho thấy các âu lo và thái độ sẵn sàng
của tâm hồn người dân Bồ giữa các chao đảo của xã hội ngày nay. Thật vậy, nền
văn hóa ngày nay phản ánh sự căng thẳng đôi khi biến thành các hình thái xung
khắc giữa hiện tại và truyền thống. Sự năng động của xã hội tuyệt đối hóa hiện
tại, bằng cách tách rời nó khỏi gia tài văn hóa của qúa khứ và không có ý hướng
vạch ra một tương lai. Nhưng việc đánh giá hiện tại như suối nguồn gợi hứng cho
ý nghĩa cuộc sống cá nhân cũng như xã hội đụng độ với suối nguồn truyền thống
văn hóa của dân tộc Bồ, mang đậm ảnh hưởng ngàn năm của Kitô giáo và với ý thức
về tinh thần trách nhiệm toàn cầu. Nó được khẳng định trong các cuộc mạo hiểm
khám phá và trong nhiệt tâm truyền giáo để chia sẻ đức tin với các dân tộc
khác. Lý tưởng đại đồng và tình hguynh đệ Kitô đã gợi hứng cho cuộc mạo hiểm
chung đó, cả khi các ảnh hưởng của chủ thuyết thiên quang luận và duy đời có mạnh
mẽ đi nữa. Truyền thống đó đã làm nảy sinh ra điều mà chúng ta có thể gọi là sự
”khôn ngoan”, nghĩa là ý nghĩa của cuộc sống và lịch sử thành phần của thế giới
luân lý đạo đức, và một lý tưởng mà Bồ Đào Nha phải chu toàn trong tương quan
với phần còn lại của thế giới. Đức Thánh Cha nêu bật phần đóng góp của Giáo Hội
trong lãnh vực này như sau:
Giáo Hội như là một người bảo vệ một truyền thống lành mạnh và cao qúy, góp
phần phục vụ xã hội. Giáo Hội tiếp tục tôn trọng và đánh giá cao việc phục vụ
công ích của nó nhưng nó đang xa rời sự khôn ngoan thành phần gia tài của nó.
Sự xung khắc giữa truyền thống và hiện tại được diễn tả ra trong cuộc khủng
hoảng của sự thật, nhưng chỉ có sự thật mới có thể định hướng và vạch ra con
đường của một cuộc sống thành công cho cá nhân cũng như cho dân tộc. Thật vậy,
một dân tộc mà không còn biết đâu là sự thật của riêng mình nữa, thì rốt cuộc
sẽ bị mất hút trong các mê cung của thời gian và lịch sử, không có giá trị được
định nghĩa rõ ràng và không có các mục đích lớn lao báo trước. Cần nỗ lực hiểu
biết hình thức Giáo Hội định vị của mình trong thế giới, bằng cách trợ giúp xã
hội hiểu rằng loan báo sự thật là một việc phục vụ Giáo Hội cống hiến cho xã
hội, bằng cách mở rộng các chân trời mới mẻ của tương lai, của sự cao cả và của
phẩm giá.
Thật thế, Giáo Hội có một sứ mệnh sự thật phải chu toàn trong mọi thời đại và
mọi trạng huống, để tạo dựng một xã hội phù hợp con người, với phẩm giá và sứ
mệnh của nó. Việc trung thành với con người đòi buộc phải trung thành với sự
thật, là bảo đảm duy nhất của sự tự do và khả thể phát triển nhân bàn toàn
diện. Chính vì thế Giáo Hội tìm kiếm sự thật, không mệt mỏi loan báo sự thật và
thừa nhận sự thật tại tất cả mọi nơi nó tỏ hiện. Sứ mệnh sự thật đó là điều
Giáo Hội không thế khước từ được” (Caritas in veritate, 9).
Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha khẳng định rằng đối với một xã hội có đa số
dân theo công giáo và có nền văn hóa in đậm dấu vết của Kitô giáo, kiếm tìm sự
thật ngoài Chúa Giêsu Kitô là một điều thê thảm. Đối với Kitô hữu Chân Lý là
Thiên Chúa, là Ngôi Lời vĩnh cửu, là Đức Giêsu Kitô Đấng đã nói ”Ta là Sự Thật”
(Ga 4,6). Trong sự gắn bó với sự thật ngàn đời, Giáo Hội tập sống với và tôn
trọng các ”sự thật khác”, hay sống sự thật với các người khác. Cuộc đối thoại
đó có thể mở ra các cánh cửa cho việc thông truyền sự thật. Đức Phaolô VI đã
nói: ”Giáo Hội phải đối thoại với thế giới trong đó nó sống. Giáo Hội trở thành
lời nói, Giáo Hội trở thành sứ điệp, Giáo Hội trở thành đối thoại” (Ecclesiam,
67). Đối thoại không hàm hồ và tôn trọng các thành phần khác là một ưu tiên
trong thế giới hiện nay, mà Giáo Hội không tránh né. Sự hiện diện của Tòa Thánh
trong các cơ cấu quốc tế khác nhau, thí dụ như tại trung tâm Bắc Nam của Hội
Đồng Âu châu được thành lập cách đây 20 năm tại Lisboa, là một dấu mốc cho cuộc
đối thoại liên văn hóa, nhằm thăng tiến sự cộng tác giữa Âu châu, miền Nam Địa
Trung Hải và Phi châu, cũng như để xây dựng một quốc tịch thế giới dựa trên các
quyền con người và trách nhiệm công dân, độc lập với nguồn gốc chủng tộc, chính
trị và tôn trọng các niềm tin tôn giáo. Phải lam sao để sự khác biệt văn hóa đó
trở thanh dịp làm giầu cho nhau, cống hiến cho nhau chân thiện mỹ. Và Đức Thánh
Cha đã đưa ra lời kêu gọi như sau:
Đây là giờ phút đòi hỏi điều tốt đẹp nhất trong sức lực của chúng ta, sự táo
bạo ngôn sứ, khả năng được canh tân để ”chỉ cho thế giới thấy các thế giới
mới”, như thi sĩ Luigi di Camoes của anh chị em đã nói. Anh chị em là những
người làm văn hóa trong mọi hình thái của nó, là những người tạo dựng tư tưởng và
dư luận, ”nhờ tài năng anh chị em có khả thể nói với con tim của nhân loại,
đánh động sự nhậy cảm cá nhân và tập thể, khơi dậy các giấc mơ và niềm hy vọng,
trải rộng các chân trời của sự hiểu biết và dấn thân của con người... Đừng sợ
hãi đối đầu với suối nguồn đầu tiên và cuối cùng của vẻ đẹp, đối thoại với các
tín hữu, với những người như anh chị em, cảm thấy mình là người lữ hành trong
thế giới này và trong lịch sử của Vẻ Đẹp vô tận” (Diễn văn nói với giới văn
nghệ sĩ 21-11-2009).
Công Đồng Chung Vaticăng II đã được nhóm họp chính là ”để cho thế giới tân tiến
tiếp cận với các năng lực sống động ngàn đời của Tin Mừng” (Giovanni XXIII,
Humanae salutis, 3). Công Đồng khởi hành từ ý thức được canh tân về truyền
thống công giáo, nghiêm chỉnh phân định, biến đổi và thắng vượt các phê bình
trong nền tảng của các sức mạnh đặc tính của sự tân tiến hay Cải cách và thuyết
thiên quang luận... Công Đồng đã đặt để các giả thiết cho một việc canh tân
công giáo đích thật và cho một nền văn minh mới, nền văn minh của tình thương,
như việc phục vụ cho con người và xã hội theo tinh thần Tin Mừng.
Từ biệt giới văn hóa Đức Thánh Cha trở lại Tòa Sứ Thần Tòa Thánh và vào lúc 12
giờ ngài đã có cuộc hội kiến với Thủ tướng Bồ trong vòng 45 phút. Thủ tướng
José Sócrates được Ngoại trưởng Bồ và Đại sứ Bồ cạnh Tòa Thánh tháp tùng. Ông
đã được Đức Sứ Thần Tòa Thánh tiếp đón và đưa lên lầu 1 để hội kiến với Đức
Thánh Cha.
Sau khi dùng bữa trưa với đoàn tùy tùng và nghỉ ngơi chốc lát, lúc 15 giờ 45
Đức Thánh Cha đã rời Tòa Sứ Thần để ra phi trường quốc tế Lisboa cách đó 6 cây
số lấy trực thăng đi Fatima.
Fatima là tên A rập của một làng miền trung Bồ Đào Nha, cách thủ đô Lisboa 120
cây số. Làng này có 8.000 dân là nơi hồi năm 1917 Đức Mẹ đã hiện ra với ba trẻ
mục đồng là Lucia 10 tuổi, Phanxicô 9 tuổi và Giacinta 7 tuổi.
Đền thánh đã được xây tại ”Cova da Iria” là nơi Đức Mẹ hiện ra, bao gồm quảng
trường dài 540 mét, ngang 160 mét. Mạn bắc là Vương Cung Thánh Đường kính Đức
Mẹ xây năm 1928. Bên cạnh có nhà tĩnh tâm ”Nossa Senhora do Carmo”, đối diện là
nhà tĩnh tâm ”Nossa Senhora das Dores” là nơi ở của Ban Giam Đốc trông coi đền
thánh và các văn phòng quản trị. Nhìn vào mặt tiền đền thờ, bên trái là “Nhà
nguyện hiện ra”, nơi từ năm 1922 có tượng Đức Trinh Nữ bằng gỗ trắc bá Brasil.
Nhà nguyện này được xây năm 1919 nơi có cây sồi trên đó Đức Mẹ đã hiện ra với
ba mục đồng hai năm trước đó. Cuối quảng trường đối diện với Vương Cung Thánh
Đường là quảng trường Pio XII, là vị Giáo Hoàng đã nhiều lần bầy tỏ lòng sùng
kính đối với Đức Mẹ Fatima.
Tượng Đức Mẹ Fatima cao 1 mét 10 được đội triều thiên năm 1956 đã thánh du đó
đây trên thế giới 9 lần. Trong Năm Thánh Cứu Độ tượng đã được rước về Roma và
đặt tại quảng trường Thánh Phêrô ngày 25-3-1984 trong thánh lễ, trong đó Đức
Gioan Phaolô II đã thánh hiến thế giới và toàn nhân loại cho Trái Tim Vô Nhiễm
Nguyên Tội Đức Mẹ.
Dưới các hàng cột nối liền Vương Cung Thánh Đường với các dinh thự khác là 14
chặng đàng Thánh Giá do tín hữu Hungari dâng kính cùng với nhà nguyện kính
thánh Stephano Bổn Mạng Hungari, dưới đồi Canvê.
Bên trong Vương Cung Thánh Đường có mộ của ba mục đồng. Năm 1986 các nhân đức
anh hùng của Phanxicô và Gicinta được thừa nhận, và ngày 13-5-2000 Đức Gioan
Phaolô II đã phong Chân Phước cho hai người. Tại Fatima có nhiều trường trung
học và các khách sạn và nhà trọ có hơn 10.000 chỗ. Bên cạnh đó có nhiều dòng tu
cũng nhận khách hành hương hay những người muốn tới tĩnh tâm.
Giáo phận Leiria-Fatima được thành lập năm 1545, bị hủy bỏ năm 1881 và
tái lập năm 1918, có 288 ngàn dân, 91% theo công giáo, gồm 75 giáo xứ, 264 nhà
thờ, 100 Linh mục giáo phận, 70 Linh mục dòng, 18 tu huynh, 664 nữ tu, 5 đại
chủng sinh. Giáo hội điều khiển 61 cơ sở giáo dục và 47 cơ sở bác ái. Giám Mục
giáo phận là Đức Cha António Augusto dos Santos Marto.
Ra đón Đức Thánh Cha tại phi trường Fatima có Đức Giám Mục giáo phận Leiria -
Fatima và ông Chủ tịch chính quyền vùng Ourem cũng như chính quyền quân sự vùng
này.
Từ phi trường Đức Thánh Cha đã đi xe tới viếng Nhà nguyện hiện ra cách đó 4,5
cây số. Hàng trăm ngàn tín hữu đã tụ tập nhau tại quảng trường để chào đón Đức
Thánh Cha.
Đức Thánh Cha đã được Linh Mục Virgilio do Nascimento Antunes, Giám đốc Đền
Thánh, tiếp đón. Ngài đến qùy cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ và dâng kính Đức Mẹ
một hoa hồng bằng vàng. Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đến nhà thờ chính tòa Chúa Ba
Ngôi cách đó 300 thước để chủ sự buổi hát kinh chiều với các linh mục, Phó tế,
chủng sinh và tu sĩ nam nữ.
Lễ nghi đặt viên đá đầu tiên xây nhà thờ kính Chúa Ba Ngôi được cử hành ngày
mùng 6 tháng 6 năm 2004. Viên đá là một miếng cẩm thạch lấy từ mộ của thánh
Phêrô dưới hầm Đền Thờ Thánh Phêrô được Đức Gioan Phaolô II tặng và làm phép.
Để ghi ơn Đức Giáo Hoàng miếng cấm thạch này được gắn trước bàn thờ chính và
viên đá đặt nền là một viên đá khác cũng lấy từ hầm đền thờ Thánh Phêrô.
Nhà thờ chính tòa kính Chúa Ba Ngôi được khánh thành ngày 14 tháng 10 năm 2007,
rất rộng, có 8.600 chỗ ngồi. Mái nhà thờ rộng 12.000 mét vuông được cấu trúc để
đặt hệ thống lấy điện từ ánh mặt trời. Bên trong nhà thờ các tường có hệ thống
cách âm và có hệ thống lọc và điều hòa không khí. Bàn thờ, giá sách, ghế ngồi
của chủ tế và nền nhà thờ bằng đá biển trắng, trong khi phần còn lại là bằng đá
vôi mầu xanh đậm da trời.
Buổi gặp gỡ diễn ra trong bầu khí cử hành Năm Linh Mục. Cùng hiện diện trong
buổi hát kinh chiều với các linh mục, chủng sinh, phó tế và các tu sĩ nam nữ
cũng có các nhân viên mục vụ và thành viên các phong trào và hội đoàn giáo hội.
Trong bài giảng sau bài đọc ngắn, Đức Thánh Cha bày tỏ lòng quí mến và biết ơn
của Giáo Hội đối với tất cả các Linh Mục, tu sĩ, những người đã dâng mình cho
Chúa Kitô. Ngài nói: ”Tôi cám ơn vì chứng tá nhiều khi âm thầm của anh chị em
và nhiều khi không dễ dàng. Trong Chúa Kitô hiện diện nơi phép Thánh Thể, tôi
thân ái chào thăm tất cả các anh chị em trong chức linh mục, các phó tế, các tu
sĩ thánh hiến nam nữ, các chủng sinh cũng như các thành viên phong trào và hội
đoàn của Giáo Hội hiện diện nơi đây.. Mối quan tâm chính của mỗi Kitô hữu, đặc
biệt của những người thánh hiến và các thừa tác viên bàn thánh phải là làm sao
trung thành với ơn gọi của mình, như người môn đệ muốn theo Chúa. Lòng trung
thành trong thời gian chính là danh xưng của tình yêu; một tình yêu trước sau
như một, chân thực và sâu đậm đối với Chúa Kitô Linh Mục”.
Đức Thánh Cha cũng trưng dẫn lời vị tiền nhiệm Gioan Phaolô II: ”Nếu bí tích
rửa tội là việc bước vào sự thánh thiện của Thiên Chúa qua sự tháp nhập vào
Chúa Kitô và được Thánh Linh của Chúa ngự trị, thì thật là điều mâu thuẫn, khi
chúng ta chỉ hài lòng với một cuộc sống tầm thường, chỉ sống theo thứ luân lý
tối thiểu và và một thứ đạo đức hời hợt”. (Thư Novo millennio ineunte, 31).
Đức Thánh Cha nhấn mạnh ý nghĩa Giáo Hội như một cộng đoàn đức tin và như một
thân mình của Chúa Kitô, trong đó “có sự liên đới sâu xa giữa mọi chi thể của
thân mình Chúa Kitô: không thể yêu mến Chúa mà lại không yêu thương anh em
mình”. Trong bối cảnh đó, Đức Thánh Cha nhấn mạnh tầm quan trọng của sự minh
bạch và lòng trung thành của các linh mục, tinh thần liên đới và tương trợ nhau
giữa các linh mục. Ngài cũng nói rằng thánh Gioan Maria Vianney e ngại ”các
linh mục trở nên thiếu nhạy cảm và quen dần với sự dửng dưng lãnh đạm của các
tín hữu: ”Khốn cho mục tử nào im lặng khi thấy Thiên Chúa bị xúc phạm và các
linh hồn bị hư mất!”...
”Anh em hãy ý thức về hồng ân khôn sánh là chức linh mục của anh em. Lòng trung
thành của anh em đối với ơn gọi của mình đòi phải can đảm và tín thác, nhưng
Chúa cũng muốn anh em biết hợp lực với nhau; hãy tỏ ra ân cần đối với nhau và
nâng đỡ nhau”. Thật là điều quan trọng khi anh em giúp đỡ nhau bằng lời cầu
nguyện và những lời khuyên hữu ích, những lời phân định! Hãy đặc biệt chú ý đến
những tình trạng suy yếu lý tưởng linh mục, hoặc chỉ lo toan những công việc
không phù hợp hoàn toàn với những gì thuộc về thừa tác viên của Chúa Giêsu
Kitô. Vì thế, đây là lúc phải có thái độ cương quyết giúp đỡ anh em mình đứng
vững, cùng với tình huynh đệ nồng nhiệt”.
Sau cùng, ám chỉ đến tình trạng thiếu ơn gọi Linh Mục tại Bồ đào nha, Đức Thánh
Cha nói rằng: ”Tuy chức linh mục của Chúa Kitô là đời đời” (Dt 5,6), nhưng cuộc
sống của linh mục lại giới hạn. Chúa Kitô muốn rằng những người khác nối tiếp
qua dòng thời gian chức linh mục thừa tác mà ngài đã thiết lập. Vì thế, anh em
hãy duy trì những ơn gọi linh mục nơi các tín hữu.
Sau cùng ngài nhắn nhủ các Linh Mục, tu sĩ nam nữ Bồ đào nha, hãy dấn thân trên
con đường trung thành, để mang đến cho xã hội ngày nay Chúa Giêsu, chịu chết và
sống lại, nhưng Người vẫn ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế và tiếp
tục ban mình cho mọi người trong bí tích Thánh Thể.”
Đức Thánh Cha đã đọc lời kinh phó thác và thánh hiến các linh mục cho Trái Tim
Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria. Lời kinh mở đầu như sau: ”Lậy Mẹ Vô Nhiễm Nguyên
Tội, trong nơi ân sủng này, được triệu tập bởi tình yêu của Chúa Giêsu Con Mẹ,
là Linh Mục Thượng Phẩm đời đời, chúng con là con trong Người Con và linh mục
của Người, chúng con thánh hiến mình cho Trái Tim hiền mẫu Mẹ để trung thành
chu toàn thánh ý Thiên Chúa Cha...
Đức Thánh Cha xin Đức Mẹ khẩn cầu cho các linh mục được ơn biến đổi trong Chúa
Kitô, để cho Chúa Kitô sinh ra trong các linh mục, cho Giáo Hội được canh tân
bởi các linh mục thánh thiện được biến đổi bởi ơn thánh của Đấng đổi mới mọi
sự. Ngài xin Mẹ bầu cử cho các linh mục được trở nên dụng cụ của ơn cứu độ, ánh
sáng và muối đất của trần gian, không suy giảm trong ơn gọi, không nhượng bộ
các ích kỷ, các lôi cuốn của trần gian và gợi ý của Kẻ Dữ. Ngài xin Đức Mẹ giữ
gìn các linh mục trong trắng, khiêm nhường, và bao bọc các linh mục với tình
yêu hiền mẫu của Mẹ, để cho các linh mục thực sự là các chủ chăn hạnh phúc tận
hiến cho Thiên Chúa và cho tha nhân, bằng lời nói và cuộc sống và hằng ngày lập
lại ba tiếng ”này con đây”. Xin Mẹ hướng dẫn và làm cho các linh mục trở thành
các Tông Đồ của Lòng Thương Xót Chúa, tươi vui cử hành Hiến Tế thánh thiện và
sẵn sàng ban bí tích Hoà Giải. Xin Mẹ hoàn toàn canh tân trái tim của các linh
mục để các vị yêu mến Thiên Chúa hết sức mình và phục vụ nhân loại như Mẹ đã
phục vụ. Xin Mẹ bầu cử cùng Thiên Chúa Cha và Chúa Con đổ tràn đầy Thánh Thần
xuống trên các linh mục. Đức Thánh Cha xin Đức Mẹ đừng mệt mỏi viếng thăm, an
ủi và nâng đỡ các linh mục, giải cứu các vị khỏi mọi hiểm nguy. Ngài xin sự
hiện diện của Mẹ làm nở hoa sa mạc cô đơn và dãi sáng mặt trời trên các tối
tăm, cho bình yên trở lại sau bão tố, để mọi người trông thấy ơn cứu độ của
Chúa.
Kết thúc buổi hát kinh chiều Đức Thánh Cha đã đi xe đến nhà ”Đức Bà Camêlô”
cách đó 300 mét để dùng bữa tối. Lúc 9 giờ rưỡi tối ngài đã đến Nhà Nguyện Hiện
Ra để làm phép nến và chủ sự buổi lần hạt Mân Côi kính Đức Mẹ.
Ngỏ lời với tín hữu Đức Thánh Cha khích lệ mọi người noi gương Mẹ Maria để cho
lời Mẹ nói với thiên thần ”xin xảy ra cho tôi” vang vọng trong cuộc sống. Với
nến sáng trong tay, anh chị em giống như một biển ánh sáng chung quanh nhà
nguyện đơn sơ kính Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta, khi từ đất về trời xem ra
như một luồng ánh sáng đối với ba mục đồng. Nhưng ánh sáng của Mẹ cũng như của
chúng ta đến từ Chúa Giêsu. Sự hiện diện của Chúa trong chúng ta nhắc nhớ đến
bụi gai cháy đã lôi kéo sự chú ý của ông Môshê trên núi Sinai. Chúng ta chỉ là
bụi gai đáng thương, nhưng có ánh sáng vinh quang của Thiên Chúa ngự xuống. Vì
thế chúng ta hãy chúc tụng và tôn vinh Chúa, vì các chương trình kỳ diệu của Ngài.
Trinh Nữ Maria đầy ơn phúc đã là nữ tỳ khôn sánh của các chương trình ấy. Trước
bụi gai cháy Thiên Chúa đã truyền cho ông Môshê cởi dép ra, vì đất nơi ông đang
đứng là đất thánh (Xh 3,5). Ông đã vâng lời, nhưng sẽ lại mang dép vào và ra di
giải thoát dân Israel khỏi kiếp sống nô lệ bên Ai Cập để dẫn họ về vùng Đất
Hứa. Nó không chỉ là vùng đất quốc gia mà mọi dân tộc đều có quyền sống. Vì
cuộc chiến đấu ấy cũng là chiến đấu cho quyền tự do thờ phượng và tự do phụng
tự nữa.
Trong thời đại chúng ta ngày nay, tại nhiều vùng dất trên thế giới đức tin có
nguy cơ bị tắt lịm như một ngọn đèn không được châm dầu, vì thế ưu tiên hàng
đầu là phải làm cho Thiên Chúa hiện diện trong thế giới này và làm cho con
người đến được với Thiên Chúa, Đấng đã nói tại núi Sinai; và gương mặt của
Người chúng ta có thể nhận ra nơi Đức Giêsu KitÔ chịu đóng đinh và phục sinh.
Anh chị em thân mến, hãy thờ lậy Cháu Kitô trong trái tim anh chị em. Đừng sợ
hãi nói về Thiên Chúa và đừng xấu hổ biểu lộ các dấu chỉ của đức tin, bằng cách
làm rạng ngời lên trong mắt của con người thời nay ánh sáng của Chúa Kitô.
Nơi đây chúng ta kinh ngạc nhận ra sức mạnh nôi tâm xâm chiếm ba trẻ mục đồng
trong những lần hiện ra của Thiên Thần và của Mẹ Thiên Quốc. Nơi đây bao lần Mẹ
đã xin chúng ta lần hạt, chúng ta hãy để cho các mầu nhiệm của Chúa Kitô, các
mầu nhiệm Mân Côi của Mẹ Maria lôi cuốn... Ơn thánh tràn ngập con tim khơi đậy
ước muốn thay đổi cuộc sống để chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: ”Đối với
tôi sống là Chúa Kitô” (Pl 1,21).
Kết thúc bái huấn dụ Đức Thánh Cha nói ngài cảm thấy được đồng hành bởi lòng
sùng mộ và yêu thương của các tín hữu từ khắp nơi trên thế giới tề tựu về đây,
và Ngài mang theo các âu lo, các chờ mong của thời đại chúng ta và các thương
tích của nhân loại, các vấn đề của thế giới đến đặt dưới chân Mẹ.
Xin Mẹ bầu cử với Con Mẹ cho mọi gia đình các dân nước đã biết Chúa cũng như
chưa biết Chúa, để cho mọi người được sống trong hòa bình và hòa hợp cho tới
khi trở thành một dân duy nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Sau buổi canh thức Đức Thánh Cha đã trở về Nhà Đức Bà Camelô để nghỉ đêm kế
thúc ngày thứ hai viếng thăm Bồ Đào Nha.
Linh Tiến Khải