THÔNG ĐIỆP NGÀY DU LỊCH THẾ GIỚI NĂM 2010
"Du lịch không
thể làm giảm nhẹ trách nhiệm của nó trong việc bảo vệ sự đa dạng sinh học"
(ubmvgiadinh.org)
– Đây là sứ điệp cho Ngày Du Lịch Thế Giới năm 2010, sẽ được tiến hành ngày
27 tháng 9. Chủ đề cho ngày này năm nay là "Ngành Du lịch và Đa Dạng Sinh
Học". Hội Đồng Giáo Hoàng cho Người Di Cư và Du Lịch đã công bố sứ điệp
vào ngày 30/06/2010.
Dưới chủ đề "Du Lịch và
Đa Dạng Sinh Học" được đề xuất bởi Tổ Chức Du Lịch Thế Giới, Ngày Du Lịch
hy vọng đưa ra những đóng góp của nó cho "Năm Quốc Tế về Đa Dạng Sinh
Học" 2010, tuyên bố trước Đại Hội Đồng của Liên Hiệp Quốc.
Lời tuyên bố này được nảy sinh
từ một sự quan ngại sâu sắc về "sự liên hệ mật thiết của việc mất đa dạng
sinh thái với xã hội, kinh tế, môi trường và văn hóa, bao gồm cả những tác động
tiêu cực trên sự đạt tới được những mục tiêu phát triển của thiên niên kỷ, và
nhấn mạnh sự cần thiết của việc kế thừa những tiêu chuẩn đo lường cụ thể để bảo
tồn nó.(1)
Đa dạng sinh thái hay là đa
dạng sinh học, ám chỉ đến sự phong phú của các loài sinh vật tồn tại trên trái
đất cũng như trạng thái cân bằng mỏng manh của sự phụ thuộc và tác động lẫn
nhau điều mà tồn tại giữa chúng và môi trường vật lý nơi mà chúng dựa vào để
sống và những tình trạng của chúng. Sự đa dạng sinh học được chuyển dịch thành
những hệ sinh thái khác nhau, minh họa cho điều này có thể thấy qua các khu
rừng, khu vực đầm lầy, thảo nguyên, rừng nhiệt đới, sa mạc, những dải san hô,
núi, biển và khu vực địa cực.
Có ba sự nguy hiểm cực kì và
sắp xảy ra với chúng mà điều đó đòi hỏi một giải pháp cấp bách: sự thay đổi khí
hậu, sa mạc hóa và mất đa dạng sinh học. Điều thứ hai trong những năm gần đây
đã và đang phát triển ở một tỉ lệ chưa từng thấy. Một nghiên cứu gần đây chỉ ra
rằng trên phạm vi toàn thế giới 22% các động vật có vú, 31% động vật lưỡng cư,
13,6% sinh vật có cánh và 27% các dải đá ngầm đang bị đe dọa và đang có nguy cơ
tuyệt chủng.(2)
Có rất nhiều khu vực hoạt động
của con người mà đóng góp một cách lớn lao vào những sự thay đổi này, và một
trong số chúng, không nghi ngờ gì nữa, đó là du lịch, ngành này ở trong những
hoạt động mà sự lớn mạnh nhanh chóng và giàu kinh nghiệm. Về mặt này, chúng ta
có thể nhìn vào những thống kê mà Tổ Chức Du Lịch Thế Giới đưa cho chúng ta.
Với những người đi du lịch quốc tế đạt con số 534 triệu năm 1995 và 682 triệu
năm 2000, theo sự ước lượng của tổ chức "Tầm
Nhìn Du Lịch Năm 2020" báo cáo là 1.006 tỉ vào năm 2010 và đạt đến
1.561 tỉ vào năm 2020, theo tỉ lệ tăng trưởng trung bình hằng năm là 4.1%.(3)
và theo những thống kê này của một tổ chức du lịch quốc tế còn phải thêm vào
một số lượng quan trọng các khách du lịch nội địa. Tất cả chỉ ra sự tăng trưởng
mạnh mẽ trong lãnh vực kinh tế, cái mà mang đến vài ảnh hưởng lớn trên việc bảo
tồn và sử dụng bền vững sự đa dạng sinh học, và những mối đe dọa hệ lụy do sự
biến đổi thành những tác động về môi trường nghiêm trọng -- Đặc biệt mối bận
tâm về việc tiêu thụ triệt để nguồn tài nguyên hạn chế (chẳng hạn như nước uống
và đất đai) và sự phát sinh vô cùng lớn của ô nhiễm và cặn bã, vượt quá các số
lượng mà một vùng nhất định có thể chịu đựng được.
Tình trạng được thấy còn bị làm
trầm trọng thêm bởi thực tế là nhu cầu của người du lịch nhắm vào chính bản
chất nó ngày càng hướng tới các điểm đến tự nhiên, do bị thu hút bởi vẻ đẹp của
chúng, điều này dẫn đến một tác động lớn đến số người đến viếng thăm, đến nền
kinh tế của họ, đến các di sản văn hóa và đến môi trường. Thực tế này có thể
thực sự là một yếu tố có hại hoặc là, đáng khác, đóng góp một cách ấn tượng và
trong một cách thức tích cực đến việc bảo tồn các di sản. Trong cách này du
lịch tồn tại một cách ngược đời. Nếu nó nổi lên và phát triển nhờ sự hấp dẫn
của một vài địa điểm tự nhiên và văn hóa, và mặt khác một ngành du lịch tương
tự có thể làm cho thiệt hại và thậm chí phá hủy, và có nhiều khu du lịch đã
phải đóng cửa do bị loại ra hư là những điểm đến mà không sở hữu vẻ hấp dẫn
nguyên thủy.
Tất cả vì những điều này, chúng
ta phải khẳng định rằng du lịch không thể được làm giảm đi trách nhiệm của nó
trong việc bảo vệ sự đa dạng sinh học. Hơn nữa ngược lại, nó phải mang lấy một
vai trò chủ động trong việc đó. Trong sự phát triển về mặt kinh tế chắc chắn
cần phải đi cùng cả với những nguyên tắc của viêc bảo vệ và tôn trọng sự đa
dạng sinh học.
Cộng đồng quốc tế đã quan tâm
đến bản chất nghiêm trọng của vấn đề, và trong chủ đề này nó lặp lại lời tuyên
bố.(4) Giáo Hội muốn góp tiếng nói của mình, từ không gian của Giáo Hội, bắt
đầu từ sự nhìn nhận rằng tự bản chất Giáo Hội phải có "trách nhiệm đến sự tạo thành và Giáo Hội phải khẳng định
trách nhiệm này ở trong lãnh vực hoạt động công cộng. Trong những hành động
này, Giáo Hội không chỉ phải bảo vệ trái đất, nước và không khí như là những
quà tặng của tạo hóa điều thuộc về tất cả mọi người. Trên tất cả Giáo Hội phải
bảo vệ nhân loại khỏi sự tự hủy diệt". (5) Không đi vào trả lời cho những
giải pháp kĩ thuật cụ thể, điều đó đi quá khả năng của Giáo Hội, Giáo Hội quan
tâm đến việc làm sao chú ý đến mối quan hệ giữa chính Giáo Hội với Đấng Tạo Dựng,
giữa nhân loại và sự tạo thành.(6) Giáo huấn của Giáo Hội lặp lại cách kiên
định trách nhiệm của con người trong việc bảo tồn một môi trường đầy đủ và khỏe
mạnh cho tất cả mọi người, từ sự nhìn nhận rằng "việc bảo dưỡng môi sinh
trình bày ra một sự thách thức cho tất cả nhân loại. Nó là một vấn đề chung và
trách nhiệm toàn cầu, là tôn trọng công ích"(7)
Như Đức Giáo Hoàng Benedict XVI
chỉ ra trong Thông Điệp Bác Ái Trong Sự Thật, "trong thiên nhiên, tín hữu
nhận ra kết quả tuyệt vời của các hành động sáng tạo của Thiên Chúa, cái mà
chúng ta có thể sử dụng cách hợp lý để đáp ứng những nhu cầu, nguyên liệu hay
thứ khác chính đáng của chúng ta, trong khi tôn trọng sự cân bằng thuộc bản
chất của việc tạo thành,"(8) và việc sử dụng trình bày cho chúng ta "một
trách nhiệm với những người nghèo, với các thế hệ tương lai và với toàn thể
nhân loại". (9) Vì điều này ngành du lịch phải tôn trọng môi trường, xem
xét đến sự hòa hợp nội tại với công trình sáng tạo, vậy nên bảo vệ sự bền vững
của các nguồn tài nguyên mà nó(ngành du lịch) phụ thuộc trong khi không dẫn đến
sự thay đổi sinh thái không thể phục hồi được.
Liên hệ với tự nhiên thì quan
trọng và do đó ngành du lịch phải nỗ lực tôn trọng và làm tăng thêm vẻ đẹp của
công trình sáng tạo, từ việc nhìn nhận rằng "rất nhiều người cảm thấy bình
an và sự thanh bình, canh tân và lấy lại được sức sống khi họ có liên hệ mật
thiết với vẻ đẹp và hòa hợp với thiên nhiên. Vẫn tồn tại một đặc quyền cụ thể:
khi chúng ta quan tâm đến công trình sáng tạo, chúng ta nhận ra rằng Thiên Chúa,
thông qua tạo dựng, chăm sóc chúng ta"(10) .
Có một yếu tố mà làm cho nỗ lực
này thậm chí khẩn thiết hơn bao giờ hết. Trong cuộc hành trình tìm kiếm Chúa,
con người khám phá ra các cách thức để mang Ngài đến gần Mầu Nhiệm, trong đó
công trình sáng tạo là một điểm khởi đầu.(11) Tự nhiên và đa dạng sinh học nói
cho chúng ta về Thiên Chúa Đấng Tạo Dựng, Ngài làm cho chính Ngài hiện diện
trong công trình sáng tạo của Ngài, "Nếu chúng say mê những vẻ đẹp đó mà
coi là thần minh, thì cũng phải biết rằng Chúa Tể của những vật đó còn đẹp hơn
biết mấy, vì chính Đấng sáng tạo mọi loài là tác giả của muôn vẻ đẹp" (Kn
13,3). Đó là lý do tại sao thế giới, trong sự đa dạng của nó, "trình bày chính nó trước mắt con người
như là bằng chứng về Thiên Chúa, nơi mà quyền lực sáng tạo, quan phòng và
cứu độ của Ngài được biểu lộ"(12). Vì lý do này, du lịch, mang chúng ta
đến gần công trình sáng tạo trong sự đa dạng và phong phú của nó, có thể là một
dịp để đẩy mạnh và làm tăng lên kinh nghiệm tôn giáo của chúng ta.
Tất cả những điều này làm để
nhằm mong nhìn thấy một sự cân bằng giữa du lịch và đa dạng sinh học cấp bách
và cần thiết, nơi mà chúng bổ túc hỗ tương cho nhau, vì thế sự phát triển kinh
tế và việc bảo vệ môi trường không xuất hiện như là những yếu tố đối nghịch và
không tương thích, nhưng hơn hết điều đó nhằm điều hòa những nhu cầu của cả hai
bên.
Những nỗ lực để bảo vệ và xúc
tiến sự đa dạng sinh học trong mối quan hệ của nó với du lịch đang được phát
triển, trước tiên, thông qua những chiến lược cộng tác và chia sẻ, nơi mà những
lĩnh vực đa dạng mặc nhiên có liên quan. Ưu tiên chính yếu của các chính phủ,
các viện nghiên cứu quốc tế, hội nghề của lĩnh vực du lịch và các tổ chức phi
chính phủ bảo vệ, với một tầm nhìn dài hạn, sự cần thiết của du lịch bền vững
như là hình thức duy nhất có thể nhằm kích thích sự tăng trưởng kinh tế, bảo vệ
nguồn tài nguyên thiên nhiên và văn hóa và phục vụ như là một sự giúp đỡ thực
tế trong cuộc chiến chống lại đói nghèo.
Các cấp chính quyền phải đưa ra
những luật lệ rõ ràng để bảo vệ và củng cố sự đa dạng sinh học, tăng cường phúc
lợi và giảm bớt chi phí du lịch, trong khi bảo đảm chắc chắn thực hiện các tiêu
chuẩn.(14). Điều này phải đảm bảo chắc chắn đi cùng với việc đầu tư giáo dục và
có kế hoạch nghiêm túc. Các nỗ lực của các chính phủ sẽ cần phải lớn hơn nữa
trong những nơi mà dễ bị tổn thương nhất và nơi sự xuống cấp to lớn hơn. Có lẽ
trong một số nơi, du lịch nên bị hạn chế hoặc thậm chí nên tránh xa.
Về phần mình, lĩnh vực kinh
danh du lịch cần được yêu cầu "kế hoạch, phát triển và quản lý các công
việc kinh doanh của họ nhằm hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực, và những đóng góp
tích cực, bảo tồn các hệ sinh thái nhạy cảm và môi trường nói chung, và trực
tiếp mang lại lợi nhuận bao gồm cho cả địa phương và những cộng đồng bản địa".(15).
Về điều này, nó sẽ thuận lợi để tiến hành các nghiên cứu ưu tiên về tính bền
vững của các sản phẩm du lịch, đưa ánh sáng vào thực tế, những đóng góp khả
quan cũng như những rủi ro tiềm tàng, từ sự nhận thức được rằng lĩnh vực này
không có thể tìm kiếm mục đích thu lợi nhuận tối đa bằng bất cứ giá nào.(16)
Cuối cùng, các khách du lịch
phải ý thức rằng sự hiện diện của họ ở một nơi không phải luôn luôn là tích
cực. Với mục đích này, họ phải được thông báo lợi ích thực mà việc bảo tồn sự
đa dạng sinh học mang lại và phải giáo dục có phương pháp du lịch bền vững.
Tương tự như vậy, du khách nên yêu cầu các đề nghị kinh doanh du lịch mà thực
sự đóng góp cho sự phát triển của nơi đó. Trong trường hợp không có, không phải
là vùng đất cũng không phải là di sản lịch sử - văn hóa của nơi đến nên bị làm
hư hỏng bằng ân huệ của khách du lịch, để đáp ứng những thị hiếu và khao khát
của họ. Một nỗ lực chính là giáo dục trong một tư duy sâu sắc, trong một cách
đặc biệt quan tâm mục tử về du lịch phải được nhìn nhận, điều này giúp các du
khách có khả năng khám phá ra dấu chỉ của Chúa trong sự giàu có của đa dạng
sinh học.
Bằng cách này, từ tay của cơ sở
kinh doanh du lịch mà phát triển sự hòa hợp với công trình tạo dựng, nó sẽ hình
thành cách khả quan trong trái tim của khách du lịch lời ca ngợi của tác giả
sách thánh vịnh được lặp lại,"Lạy Đức Xhúa là Chúa chúng con, lẫy lừng
thay danh Chúa trên khắp cả địa cầu!" (TV 8,2)
Tổng giám mục
Antonio Maria Vegliò, Chủ tịch
Tổng giám mục
Agostino Marchetto, Thư ký Tổng giám mục
----------------
1 Cf. Organisation des Nations Unies, Résolution
A/RES/61/203 approuvée par l'Assemblée Générale, le 20 décembre 2006.
2 Cf. J.-C Vié, C. Hilton-Taylor et S.N. Stuart
(éd.), Wildlife in a Changing World. An Analysis of the 2008 IUCN Red List
of Threatened Species, International Union for Conservation of Nature and
Natural Resources, Gland, Suisse, 2009, p. 18:
http://data.iucn.org/dbtw-wpd/edocs/RL-2009-001.pdf
3 Cf. http://www.untwo.org/facts/eng/vision.htm
4
Le premier document qu'il faut citer est la Charte du Tourisme durable,
approuvée au cours de la "Conférence Mondiale du Tourisme durable",
qui s'est tenue dans l'île espagnole de Lanzarote du 27 au 28 avril 1995. De
façon conjointe, l'Organisation Mondiale du Tourisme (OMT), le World Travel
& Tourism Council (WTTC) et le Conseil de la Terre ont élaboré, en
1996, le rapport Agenda 21 pour l'Industrie du Voyage et du Tourisme : vers
un développement durable pour l'environnement, qui traduit en un programme
d'action pour le tourisme l'Agenda 21 des Nations Unies pour la promotion du
développement durable (qui a été adoptée au Sommet de la Terre, tenu à Rio de
Janeiro en 1992). Un autre point de référence significatif est la Déclaration
de Berlin, le document conclusif de la "Conférence internationale des
Ministres de l'Environnement sur la biodiversité et le tourisme", qui
s'est déroulée dans la capitale allemande du 6 au 8 mars 1997. Ce document
représente peut-être la contribution la plus importante, à cause de son élaboration,
de son influence, de sa diffusion et de ses signataires. Quelques mois après, a
été signée la Déclaration de Manille sur l'impact social du tourisme, où
était mis en relief l'importance d'une série de principes en faveur de la
durabilité touristique. Le fruit du "Sommet mondial de
l'écotourisme", organisé en mai 2002 par l'OMT, avec le soutien du
Programme des Nations Unies pour l'Environnement (UNEP), a été la publication
de la Déclaration de Québec sur l'écotourisme. Dans le cadre du
"Congrès sur la Diversité Biologique" ont été émanées, en 2004, les Orientations
sur la Diversité Biologique et le Développement du Tourisme. À tous ces
documents à caractère international, il faut ajouter les nombreux guides et
manuels de bonnes pratiques que l'OMT a publié sur ce thème, parmi lesquels il
faut mettre en relief Pour un tourisme plus durable : Guide pour les
responsables politiques, publié en 2005 en collaboration avec le UNEP.
5
BenoÎt XVI, Lettre Encyclique Caritas in veritate, n° 51 : AAS
101 (2009), p. 687.
6
Cf. BenoÎt XVI, Message pour la célébration de la XLIIIème
Journée Mondiale de la Paix 2010, 8 décembre 2009, n° 4 : L'Osservatore
Romano, n° 290 (45.333), 16 décembre 2009, p. 6.
7
Conseil Pontifical "Justice et Paix", Compendium de la Doctrine Sociale
de l'Église, Libreria Editrice Vaticana, Cité du Vatican 2004, n° 466. Cf.
Jean-Paul II, Lettre Encyclique Centesimus annus, n° 40 : AAS 83
(1991) p. 843.
8
BenoÎt XVI, Lettre Encyclique Caritas in veritate, n° 48, l.c.,
p. 684.
9
Ibidem.
10
BenoÎt XVI, Message pour la célébration de la XLIIIème Journée Mondiale de
la Paix 2010, n° 13, l.c.
11
Cf. Catéchisme de l'Église catholique, Libreria Editrice Vaticana, Cité
du Vatican 1997, n° 31.
12
Conseil Pontifical "Justice et Paix", Compendium de la Doctrine
sociale de l'Église, n° 487, l.c.
13
Cf. Ibidem, n° 470.
14
Cf. BenoÎt XVI, Lettre Encyclique Caritas in veritate, n° 50, l.c.,
p. 686.
15 Sommet mondial de l'écotourisme, Rapport
final. Déclaration de Québec sur l'écotourisme, 22 mai 2002, Organisation
mondiale du tourisme et Programme des Nations Unies pour l'Environnement,
Madrid 2002, recommandation n° 21.
16 Cf. Organisation Mondiale du tourisme, Code
mondial d' éthique du Tourisme, 1er octobre 1999, art. 3 §4 :
http://www.unwto.org/ethics/full_text.php?subop=2