Canh
tân sự tin tưởng và hoàn toàn phó thác cho Chúa
Radiovaticana 05/10/2011 18.58.50 – Hãy canh tân sự tin
tưởng nơi Chúa, bằng cách hoàn toàn phó thác cho bàn tay quan phòng của Người.
Cả trên các con đường khó khăn của thời đại ngày nay luôn bước theo các đường
lối của Chúa như đoàn chiên ngoan ngoãn và vâng lời.
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khích lệ hơn 20.000 tín hữu
và du khách hành hương năm châu như trên trong buổi tiếp kiến chung tại quảng
trường thánh Phêrô sáng thư tư hàng tuần 5-10-2011
Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã tiếp tục loạt bài giáo
lý về “trường cầu nguyện” và giải thích thánh vịnh 23, là thánh
vịnh rất quen thuộc và được tín hữu ưa thích. Hướng tới Chúa trong lời cầu
nguyện luôn luôn đòi buộc phải có sự tin tưởng triệt để, và ý thức tín thác nơi
Thiên Chúa là Đấng tốt lành, từ bi thương xót, chậm giận, giầu tình thương và
lòng thành tín (Xh 34,6-7; Tv 86,15; x. Ge 2,13; St 4,2; Tv 103, 8; 145,8; Nk
9, 17). Đức Thánh Cha nói:
“Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu
thốn gì”: lời cầu nguyện đẹp này bắt đầu như trên, bằng cách gợi lại môi
trường chăn nuôi và kinh nghiệm hiểu biết giữa mục tử và các con chiên. Hình
ảnh này nhắc nhớ tới bầu khí tin tưởng, thân tình, dịu hiền: người mục tử biết
từng con chiên một, gọi tên chúng và chúng theo anh, vì biết anh nên tin tưởng
nơi anh (x. Ga 10,2-4). Anh lo lắng cho chúng và giữ gìn chúng như kho báu của
mình, sẵn sàng bảo vệ chúng và bảo đảm hạnh phúc của chúng.
Tín hữu cầu nguyện gọi Thiên Chúa là mục tử và để cho Người
hướng dẫn tới đồng cỏ xanh tươi: “Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và
bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (cc.
2-3).
Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: chúng ta đừng quên
rằng quang cảnh được tác giả thánh vịnh nhắc tới là bối cảnh của một vùng đất
phần lớn là sa mạc, có ánh nắng mặt trời nung nấu, nơi các người bán du mục
sinh sống với các đoàn vật của họ. Nhưng mục tử biết tìm ra nơi có cỏ và có
nước mát, cần thiết cho sự sống, biết đem đoàn vật tới ốc đảo, trong đó linh
hồn được giải khát và có thể lấy lại sức và năng lực mới để tiếp tục lên đường.
Nếu Chúa là Mục Tử, thì cả trong sa mạc, nơi diễn tả sự
vắng mặt và cái chết, xác tín sự hiện diện của sự sống cũng không suy giảm, đến
độ tác giả thánh vịnh có thể nói “tôi không thiếu thốn gì”. Thật thế,
mục tử lưu tâm đến thiện ích của đoàn vật và thích ứng với nhịp đi và các nhu
cầu của đoàn chiên, bước đi với chúng và sống với chúng, chứ không chú ý tới
các nhu cầu của chính mình. Ưu tiên của anh là an ninh của đoàn chiên. Và Đức
Thánh Cha giải thích điểm này như sau:
Anh chị em thân mến, cả chúng ta cũng thế, giống như tác
giả thánh vịnh, nếu chúng ta bước theo “Mục tử nhân lành”, thì cho dù
các lộ trình cuộc sống chúng ta có quanh co, hay dài mấy đi nữa, thường khi cả
trong vùng sa mạc tinh thần không có nước và có mặt trời của chủ thuyết duy lý
nắng cháy, thì dưới sự hướng dẫn của Chúa Kitô Mục Tử nhân lành, chúng ta cũng
chắc chắn bước đi trên các con đường đúng đắn; và Chúa hướng dẫn chúng ta, luôn
luôn ở gần chúng ta và chúng ta sẽ không thiếu thốn gì cả. Chính vì thế tác giả
thánh vịnh có thể tuyên bố với sự an lành và xác tín mà không sợ hãi rằng: “Lậy
Chúa, dầu qua thung lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn
trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm” (c. 4).
Ai bước đi cùng Chúa, thì cả trong các thung lũng tối tăm
của khổ đau, của bất ổn của các vấn đề của con người, cũng vẫn cảm thấy chắc
chắn. Đây cũng là xác tín của chúng ta. Bóng tôi của đêm đen làm sợ hãi, với
các bóng tối nhiều như vậy khó mà phân biệt được các hiểm nguy, sự thinh lặng
của nó tràn đầy các tiếng động không thể hiểu được. Nếu đoàn chiên di chuyển
sau khi mặt trời lặn, khi không còn trông thấy rõ nữa, thì các con chiên lo
lắng, vì có nguy cơ vấp ngã, hay lìa xa hoặc lạc đàn, và cũng có nỗi sợ hãi gặp
các kẻ tấn công ấn nấp trong bóng tối. Khi nói về thung lũng “tối”, tác giả
thánh vịnh dùng một kiểu nói do thái gợi lên bóng tối của cái chết, vì thế
thung lũng phải đi qua là một nơi đầy lo âu và đe dọa khủng khiếp, đầy nguy
hiểm chết chóc. Thế nhưng tín hữu cầu nguyện tiến bước vững vàng không sợ hãi,
vì có Chúa ở cùng ông. Câu “Chúa ở cùng con” là một công bố tràn đầy tin tưởng
không lay chuyển và cô đọng một kinh nghiệm đức tin triệt để. Sự gần gũi của
Chúa biến đổi thực tại, thung lũng tối tăm mất đi mọi tính cách nguy hiểm và đe
dọa của nó.
Phần hai của thánh vịnh mở ra một quang cảnh mới. Tuy vẫn
còn trong sa mạc nhưng giờ đây chúng ta được đem vào dưới lều của sự tiếp đón: “Chúa
dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con Chúa xức đượm dầu
thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa” (c. 5). Giờ đây Chúa được giới thiệu
như Đấng tiếp đón tín hữu cầu nguyện với các dấu chỉ của lòng hiếu khách quảng
đại và tràn đầy chú ý. Chúa dọn “bàn”. Đây là một từ do thái ám chỉ việc
trải một tấm da trên đất để dọn đồ ăn thức uống trên đó để dùng bữa chung với
nhau. Đây là một cử chỉ chia sẻ, không phải chỉ chia sẻ thực phẩm, mà chia sẻ
cả cuộc sống nữa, trong một hiến lễ của sự hiệp thông và tình bạn, tạo ra các
mối dây liên đới. Thế rồi có món qùa là dầu thơm xức trên đầu nữa, trao ban êm
dịu, chữa cái nóng chói chang của mặt trời sa mạc, trao ban mát mẻ và êm dịu
cho làn da, và làm phấn chấn tinh thần với hương thơm tỏa lan của nó. Sau cùng
là chén đầy rượu ngon chia sẻ với lòng quảng đại đầy tràn.
Thực phẩm, dầu ô liu, và rượu là các món qùa trao ban sự
sống và niềm vui; chúng vượt qúa sự cần thiết, và diễn tả sự nhưng không và
phong phú tràn đầy của tình yêu... Và người ta thấy khách đi đường ở trong lều,
trong khi các kẻ thù của ông phải đứng ngoài nhìn vào mà không thể can thiệp,
bởi vì người mà họ coi là mồi ngon của họ đang an ninh ở trong lều tiếp khách,
đã trở thành khách thánh thiêng và không thể đụng tới được. Khi Thiên Chúa mở
cửa lều của Ngài ra để tiếp đón chúng ta, thì không có gì có thể làm hại chúng
ta.
Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: Và khi người
khách ra đi, sự chở che của Thiên Chúa tiếp tục đồng hành với ông trên con
đường cuộc sống: “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc
đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng những năm dài triền miền” (c.
6).
Lộ trình của ông có một ý nghĩa mới, và trở thành cuộc hành
hương lên Đền Thờ Chúa, là nơi thánh, trong đó người cầu ngyện muốn ở luôn mãi
và cũng muốn trở lại. Động từ do thái dùng ở đây có nghĩa là “trở lại”
nhưng với một thay đổi phụ âm nhỏ có thể hiểu là “ở”: đây là bản dịch
của đa số sách Thánh Kinh hiện nay. Có thể giữ lại cả hai nghĩa: trở lại Đền
Thờ và ở trong đó là ước muốn của mọi tín hữu do thái, ở gần Thiên Chúa trong
sự tốt lành của Ngài; khát vọng và ước mong của mọi tín hữu là có thể thực sự ở
nơi có Thiên Chúa, gần Thiên Chúa. Việc bước theo Mục Tử đưa tới nhà của Người
là đích điểm ở của mọi lộ trình, là ốc đảo ước mong trong sa mạc, là lều trú ẩn
trong lúc chạy trốn thù địch, là chốn an bình, nơi sống kinh nghiệm lòng lành
và tình yêu thương tín trung của Thiên Chúa, mọi ngày trong suốt cuộc đời.
Các hình ảnh phong phú sâu sắc của thánh vịnh diễn tả kinh
nghiệm tôn giáo của dân do thái dọc dài lịch sử của họ. Hình ảnh mục tử gợi lại
thời Xuất Hành, con đường lữ hành trong sa mạc như đoàn chiên được Thiên Chúa
hướng dẫn (x. Is 63,11-14; Tv 77,20-21; 78,52-54). Trong Đất hứa, nhà vua có
nhiệm vụ chăn dắt dân Chúa, như vua Đavít mục tử được Thiên Chúa tuyển chọn và
là gương mặt của Vua Cứu Thế (x. 2 Sm 5,1-2; 7,8; Tv 78,70-72). Rồi sau thời
Lưu đầy bên Babilonia, như trong một cuộc xuất hành mới,
Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác
nhau rồi cất kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.
Linh Tiến Khải