ĐỨC THÁNH CHA VIẾNG THĂM ĐAN VIỆN CHARTREUX
Radiovaticana 10/10/2011 15.28.12 – SERRA
Sáng chúa nhật 9-10, ĐTC Biển Đức 16 đã cử hành thánh lễ
tại giáo phận Lamezia Terme ở miền nam Italia với sự tham dự của 100 ngàn tín
hữu. Ban trưa ngài dùng bữa tại tòa GM địa phương với 18 GM thuộc miền
Lúc gần 5 giờ chiều, ĐTC đáp trực thăng đến thị trấn Serra
San Bruno và từ đây ngài đến Đan viện của dòng Chartreux vào lúc 5 giờ rưỡi.
Bầu trời mưa nhẹ và lạnh, nhưng cũng có 30 ngàn người cùng với chính quyền tụ
tập tại Quảng trường thánh Stefano trước Đan viện, để chào thăm ĐTC. Liền đó
ngài tiến vào bên trong Đan viện.
Serra
Serra San Bruno, có nguồn gốc từ thánh Bruno ẩn sĩ. Thánh
nhân sinh năm 1030, ở thành phố Koeln bên Đức trong một gia đình quí tộc. Ngài
theo học tại trường Nhà Thờ chính tòa giáo phận Reims bên Pháp và lưu lại địa
phương trong 30 năm trời, kể từ năm 1057, thi hành chức vụ do Đức TGM Gervais
ủy thác, đó là làm Giám đốc trường Nhà Thờ chính tòa. Trong số các môn sinh của
ngài, có nhiều người làm Giám Mục và một vị làm giáo hoàng là Chân phước Urbano
II.
Sau khi Đức TGM Gervais của giáo phận Reims qua đời, có một
LM bất xứng tên là Manasse đã mánh mung, mua chuộc nhiều giáo sĩ và trở thành
TGM giáo phận Reims. Thánh Bruno dần dần quyết liệt chống đối những hành vi bất
xứng này và đã vận động Tòa Thánh cách chức Manasse vào năm 1080. Nhưng trước
đó ngài đã bị GM này trả thù nên thánh nhân phải tị nạn tới lãnh địa của bá
tước Ebal de Roucy.
Trong những năm khó khăn ấy, ơn gọi sống đời chiêm niệm nảy
sinh trong tâm hồn thánh Bruno. Thánh nhân đã khước từ đề nghị trở thành TGM
Reims thay thế Manasse. Về sau cùng với một số bạn đồng chí hướng, ngài thành
lập Đại đan viện Chartreux bên Pháp vào năm 1084 trong rặng núi Alpes ở cao độ
1.175 mét, gần thành phố Grenobles ngày nay.
6 năm sau đó, ĐGH Urbano II, cựu môn sinh của thánh Bruno,
gọi ngài về Roma để phục vụ Tòa Thánh. Thánh nhân vâng lời rời bỏ Đan viện ra
đi. Nhưng rồi ĐGH Urbano đã phải chạy khỏi Roma vì hoàng đế Henrico IV của Đức
và ngụy Giáo Hoàng Clemente III xâm chiếm nước Tòa Thánh. Thánh Bruno cùng với
triều đình của ĐGH di tản xuống miền nam Italia. Theo đề nghị của ĐGH, kinh sĩ
đoàn tổng giáo phận Reggio Calabria đã bầu cha Bruno làm TGM giáo phận địa
phương, nhưng ngài từ chối vì lòng yêu mến ơn gọi chiêm nhiệm và ước muốn sớm
tìm lại sự cô tịch và thinh lặng mà tâm hồn ngài vẫn ao ước.
Cha Bruno đã được phép ĐGH rút lui vào đời sống cô tịch
trên vùng lúc đó mới được bá trước Ruggero d'Altavilla chinh phục. Vị bá tước
quảng đại này đã tặng cho cha Bruno một khu vực tại nơi gọi là Torre, ở cao độ
850 mét, giữa miền ngày nay là trung nam
Thánh Bruno qua đời ngày 6-10 năm 1101. Ngày 19-7 năm 1514,
ĐGH Lêo X cho phép tôn kính thánh Bruno và năm 1623, Đức Giáo Hoàng Gregerio XV
thiết lập lễ kính thánh nhân trong toàn thể Giáo Hội vào ngày 6 tháng 10 hàng
năm. Ngày nay Đan viện nói trên được gọi là Đan Viện Chartreux thánh Stephano
và Bruno.
Cách đây 27 năm, Đức Chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2
đã đến viếng Đan viện ở Serra San Bruno, nhân dịp kỷ niệm 900 năm thành lập
dòng Chartreux. Trong dịp này, ngài nhắn nhủ các Đan sĩ rằng: “Trong an tịnh
của Đan viện, có niềm vui được chúc tụng Thiên Chúa, sống trong Chúa, nhờ Chúa
và cho Chúa (..). Anh em hãy làm chứng bằng cuộc sống về tình yêu Chúa. Thế
giới đang nhìn anh em, và có lẽ vô tình, họ chờ đợi nhiều nơi đời sống chiêm
niệm của anh em. Anh em hãy tiếp tục đặt dưới mắt thế giới sự “khiêu khích” của
một lối sống tuy có những đau khổ, cô độc và thinh lặng, nhưng đang làm vọt lên
nơi anh em một nguồn mạch vui tươi luôn mới mẻ”.
Kinh chiều tại Đan Viện
Đến trước cửa Đan viện, ĐTC đã được Cha Bề trên Jacques
Dupont, người Pháp, tiếp đón, và cùng với ngài tiến vào Nhà thờ của Đan viện để
hát kinh chiều với cộng đoàn.
Trong bài giảng, sau khi nhắc đến cuộc viếng thăm của vị
Tiền nhiệm, Đức Gioan Phaolô 2 tại đan viện Chartreux này ngày 5-10 năm 1984
nhân dịp kỷ niệm 900 năm thành lập dòng Chartreux, ĐTC đặc biệt đề cao đặc tính
của dòng:
“Từ bỏ những thực tại phù du và tìm cách nắm bắt vĩnh cửu.
Qua lối diễn tả này trong lá thư mà vị sáng lập dòng Anh em gửi Cha quản hạt
Rodolfo của nhà thờ chính tòa thành Reims, có cô đọng nòng cốt linh đạo dòng
anh em (Xc Lettera a Rodolfo, 13): ước muốn nồng nhiệt được sống kết hiệp với
Chúa, loại bỏ mọi thứ khác, bỏ tất cả những gì ngăn cản sự hiệp thông ấy và để
cho mình được tình yêu vô biên của Thiên Chúa nắm bắt, hầu chỉ sống bằng tình
yêu ấy. Anh em thân mến, anh em đã tìm được kho tàng dấu ẩn, viên ngọc rất quí
giá (Xc Mt 13,44-46); anh em đã quyết liệt đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu:
“Nếu anh muốn nên trọn lành, hãy đi và bán những gì anh có, phân phát cho người
nghèo và anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi đến đây theo tôi” (Mt 19,21).
Mỗi đan viện, nam hay nữ, đều là một ốc đảo trong đó với kinh nguyện và suy
niệm, các đan sĩ không ngừng đào thêm chiếc giếng sâu, từ đó kín múc nước trong
mát cho cơn khát sâu đậm nhất của chúng ta. Nhưng đan viện Chartreux là một ốc
đảo đặc biệt, trong đó thinh lặng và cô tịch được chăm sóc giữ gìn, theo lối
sống đã được thánh Bruno khởi xướng và vẫn giữ nguyên qua dòng thời gian. “Tôi
ở trong sa mạc với anh em”, đó là câu xúc tích mà vị sáng lập dòng của anh em
đã viết (Lettera a Rodolfo, 4). Cuộc viếng thăm của người Kế Vị Thánh Phêrô tại
Đan viện Chartreux lịch sử này nhắm củng cố không những anh em sống tại đây
nhưng cả toàn dòng nữa trong sứ mạng đặc thù, một sứ mạng có tính chất thời sự
và ý nghĩa hơn bao giờ hết, trong thế giới ngày nay.
“Tiến bộ kỹ thuật, nhất là trong lãnh vực giao thông và
thông tin, đã làm cho đời sống con người thoải mái tiện nghi hơn, nhưng con
người cũng bị kích thích, nhiều khi co quắp hơn. Thành thị hầu như luôn luôn ồn
ào, trong đó ít khi có thinh lặng, vì vẫn luôn có tiếng ồn âm ỉ, tại một số
vùng, kể cả ban đêm. Rồi trong những thập niên gần đây, sự phát triển các phương
tiện truyền thông đã phổ biến và làm gia tăng hiện tượng đã manh nha từ thập
niên 1960: đó là hiện tượng tiềm thể có nguy cơ thống trị thực tại. Và càng
ngày càng có những người chìm đắm trong chiều kích tiềm thể, mà họ không nhận
thấy, vì những sứ điệp thính thị tháp tùng họ từ sáng đến tối. Những người trẻ
hơn, sinh ra trong hoàn cảnh đó, dường như muốn lấp đầu mọi lúc trống rỗng bằng
âm nhạc và hình ảnh, như thể họ sợ cảm thấy sự trống rỗng ấy. Đó là một xu
hướng vốn hiện hữu, nhưng nhất là nơi người trẻ và trong bối cảnh thành thị
ngày càng phát triển hiện nay, nó càng gia tăng tới mức độ người ta nói là một
sự biến chuyển về nhân loại học. Một số người không còn khả năng ở lâu trong
thinh lặng và cô tịch nữa.
ĐTC nói thêm rằng:
“Tôi muốn nói đến hoàn cảnh văn hóa xã hội như thế, vì nó
làm nổi bật đoàn sủng đặc biệt của dòng Chartreux như một món quà quí giá cho
Giáo hội và thế giới, một món quà chứa đựng sứ điệp sâu xa cho đời sống chúng
ta và cho toàn nhân loại. Tôi tóm tắt thế này: khi lui vào thinh lặng và cô
tịch, có thể nói con người trực diện với thực tại trần trụi của mình, đối diện
với cái có vẻ là trống rỗng mà tôi vừa nói, để cảm nghiệm sự Sung Mãn, sự hiện
diện của Thiên Chúa, thực tại đích thực nhất, và vượt xa hơn chiều kích cảm
giác. Đó là một sự hiện diện có thể nhận thấy được nơi mọi thụ tạo: trong không
khí mà chúng ta hít thở, trong ánh sáng mà chúng ta thấy và sưởi ấm chúng ta,
trong cỏ cây, nơi các tảng đá... Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo vạn vật, đi qua mọi
sự, nhưng đi xa hơn nữa, và chính vì thế Ngài là nền tảng của mọi sự. Khi từ bỏ
tất cả, đan sĩ có thể nói là “liều”: Đan sĩ trực diện với cô tịch và thinh lặng
để không thấy gì khác hơn là điều thiết yếu, và chính khi sống trong điều thiết
yếu ấy, Đan sĩ cũng tìm lại được sự hiệp thông sâu xa với anh em mình, nơi mọi
người”.
ĐTC cũng cảnh giác rằng có thể có người nào đó nghĩ rằng
chỉ cần đến đây là cảm nghiệm bước nhảy vọt như thế, nhưng không phải như vậy.
Ơn gọi này, cũng như mọi ơn gọi, tìm được câu trả lời trong một hành trình,
trong sự tìm kiếm trọn cuộc sống. Không phải chỉ cần rút lui vào một nơi như
Đan viện này là học được cách ở trước mặt Thiên Chúa. Cũng như trong hôn nhân,
không phải chỉ cử hành bí tích hôn phối là thực sự hai người trở nên một, nhưng
cần phải để cho ơn thánh của Chúa tác động và cùng nhau tiến bước trong cuộc
sống hằng ngày của đời sống vợ chồng, cũng vậy trở nên đan sĩ đòi phải có thời
gian, luyện tập, kiên nhẫn, “trong một sự cảnh giác kiên trì thần linh - như
thánh Bruno đã quả quyết - chờ đợi Chúa trở về thì mở cửa ngay” (Lettera a
Rodolfo, 4); và vẻ đẹp của mỗi ơn gọi trong Giáo Hội hệ tại điều này là: dành
thời giờ cho Chúa hoạt động với Thánh Linh của ngài và cho nhân tính của mình
được hình thành, tăng trưởng theo mẫu mực sự trưởng thành của Chúa Kitô, trong
bậc sống đặc biệt này.. Nhiều khi dưới mắt thế gian, dường như không thể ở
trong một đan viện suốt đời, nhưng trong thực tế, trọn cuộc đời mới chỉ vừa đủ
để bước vào sự kết hiệp với Thiên Chúa, trong Thực Tại thiết yếu và sâu xa là
Chúa Giêsu Kitô”.
Và ĐTC kết luận rằng: “Anh em thân mến là những người họp
thành cộng đoàn Chartreux ở Serra San Bruno này, chính vì thế tôi đến đây để
nói với Anh em rằng Giáo hội đang cần anh em, và Anh em cũng cần Giáo hội. Chỗ
đứng của Anh em không phải là ở ngoài lề: không có ơn gọi nào là ở ngoài lề Dân
Chúa cả: chúng ta là một thân mình duy nhất, trong đó mỗi phần tử đều quan
trọng và có cùng phẩm giá như nhau, và không thể tách rời khỏi toàn thể. Cả anh
em, là những người đang tự nguyện sống cô lập, trong thực tế anh em ở trong con
tim của Giáo Hội, và làm cho dòng máu tinh tuyền của sự chiêm niệm và tình yêu
Thiên Chúa lưu thông trong các huyết mạch của Giáo hội”.
“Thánh Giá của Chúa Kitô là điểm đứng yên giữa những thay
đổi và đảo lộn của thế giới. Cuộc sống trong một đan viện Chartreux tham phần
vào sự cố định ấy của Thánh Giá, là sự cố định của Thiên Chúa, tình yêu trung
tín của Ngài. Hỡi Anh em Chartreux quí mến, khi tiếp tục kiên vững hiệp nhất
với Chúa Kitô, như những ngành nho gắn liền với gốc nho, cả anh em cũng kết
hiệp với mầu nhiệm cứu độ, như Đức Trinh Nữ Maria nơi Thánh Giá, hiệp với Chúa
Con trong hiến tế tình yêu. Như Mẹ Maria và cùng với Mẹ, cả anh em cũng được
tháp nhập sâu xa vào trong mầu nhiệm Giáo Hội, là bí tích kết hiệp của con
người với Thiên Chúa và giữa họ với nhau. Qua đó anh em cũng đặc biệt gần gũi
với sứ vụ của tôi. Xin Mẹ Chí Thánh của Giáo Hội gìn giữ anh em, và xin Thánh
Bruno từ trời cao luôn chúc lành cho Cộng đoàn của Anh em.
Sau khi ban phép lành, ĐTC còn đứng lại trong nhà thờ của
Đan viện bắt tay chào thăm từng Đan sĩ trước khi đáp trực thăng đến đến phi
trường thành phố Lamezia Terme và từ đây ngài đáp máy bay trở về Roma lối 9 giờ
tối cùng ngày.
G. Trần Đức Anh OP