Con người thường quên lòng từ bi thương xót ngàn đời của Thiên
Chúa
Radiovaticana 19/10/2011 18.48.08 – Trong cuộc sống
của mình con người thường quên lòng từ bi thương xót ngàn đời của Thiên Chúa.
Đức Thánh Cha đã khẳng định như trên trước hơn 30.000 tín
hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung hàng tuần tại
quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư 19-10-2011.
Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã giải thích ý nghĩa Thánh
vịnh 136 là thánh vịnh tóm tắt toàn lịch sử cứu độ, từ biến cố tạo dựng vũ
trụ cho tới điểm tột đỉnh là mầu nhiệm phục sinh. Trong thời viên mãn, Con
Thiên Chúa làm người để ban sự sống và ơn cứu rỗi cho từng người bằng cách tự
hiến như bánh của mầu nhiệm phục sinh để cho chúng ta bước vào trong giao ước
của Người và làm cho chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa. Qua đó, Thiên Chúa
cho thấy lòng nhân từ và tuyệt đỉnh tình yêu thương muôn đời của Người.
Thánh vịnh 136 là lời tạ ơn thường được gọi là “lời kinh
Hallel vĩ đại”, thường được hát vào cuối tiệc Vượt Qua do thái, và chắc hẳn
cũng đã được Chúa Giêsu và các môn đệ hát trong lễ Vượt Qua cuối cùng. Toàn
thánh vịnh được khai triển theo hình thức kinh cầu với điệp khúc “muôn ngàn đời
Chúa vẫn trọn tinh thương”. Đề cập tới nội dung thánh vịnh Đức Thánh Cha nói:
Thánh vịnh liệt kê nhiều việc diệu kỳ của Thiên Chúa trong
lịch sử loài người cũng như các can thiệp liên lỉ đối với dân Người; và đáp lại
mỗi lời tuyên xưng hành động cứu độ của Chúa là điệp khúc nói lên lý do nền
tảng của lời ngợi khen: đó là tình yêu thương vĩnh cửu của Thiên Chúa, một tình
yêu thương, theo từ do thái, bao gồm sự trung thành, thương xót, lòng lành, ơn
thánh và sự hiền dịu. Xen kẽ với điệp khúc ấy là các kỳ công điển hình của
Thiên Chúa: việc tạo dựng, biến cố giải phóng xuất hành, ơn đất đai, sự trợ
giúp quan phòng và liên lỉ của Chúa đối với dân Người và đối với mọi thụ tạo.
Sau ba lời mời gọi tạ ơn Thiên Chúa (cc.1-3) thánh vịnh cử
hành Chúa như Đấng chu toàn “các kỳ công” (c. 4). Kỳ công đầu tiên là việc tạo
dựng (cc.5-9). Thế giới được dựng nên không chỉ đơn sơ là khung cảnh sự can
thiệp của Thiên Chúa, mà là chính sự khởi đầu hoạt động tuyệt diệu của Người.
Thiên Chúa tỏ lộ tất cả lòng nhân lành và vẻ đẹp của Người, Người dấn thân với
sự sống và vén mở ý muốn thiện ích, từ đó vọt lên mọi hành động cứu độ khác.
Thánh vịnh làm vang vọng lên chương đầu sách Sáng Thế. Thế giới tạo dựng được
cô đọng trong các yếu tố chính của nó đặc biệt là các tinh tú, mặt trời, mặt
trăng cai quản ngày đêm. Tuy không được nhắc đến, nhưng con người luôn luôn
hiện diện: mặt trời mặt trăng được tạo dựng cho con người và để đo thời gian và
tương quan của con người với Thiên Chúa, nhất là qua các thời gian phụng vụ.
Tiếp đến, thánh vịnh nhắc tới lễ Vượt Qua, kỷ niệm biến cố
Thiên Chúa giải phóng dận Do thái khỏi kiếp sống nô lệ bên Ai Cập, với các yếu
tố ý nghĩa nhất: việc sát hại các con đầu lòng của người Ai Cập, biến cố ra
khỏi Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ, hành trình trong sa mạc cho tới miền đất hứa
(cc.10-20). Thiên Chúa đã ra tay uy quyền mạnh mẽ can thiệp, và qua ông Môshê,
Người đã áp đặt trên Pharaô bằng cách vén mở cho thấy tất cả sự cao cả của
Người và sau cùng Người bẻ gẫy sự kháng cự của người Ai Cập, với tai ương khủng
khiếp là cái chết của các con đầu lòng của họ.
Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: cả việc vượt qua
Biển Đỏ cũng tỏ lộ quyền năng và lòng xót thương của Thiên Chúa: “Nước Biển Đỏ
Chúa phân làm hai khối, đưa Israel lối giữa băng qua, xô xuống biển Pharaô cùng
binh tướng” (cc. 13-15). Hình ảnh Biển Đỏ bị chia làm hai xem ra nhắc tới tư
tưởng biển khơi như một quái vật bị chặt làm hai và không thể làm hại con người
được nữa. Quyền năng của Thiên Chúa chiến thắng hiểm nguy của các lực lượng
thiên nhiên và quân sự do con người đưa ra: biển xem ra chắn lối dân Chúa lại
để cho họ đi qua ráo chân, rồi khép lại chôn vùi người Ai Cập. Kẻ áp bức bất
công bị thua và chìm nghỉm trong nước, trong khi dân Chúa băng ngang để tiếp
tục con đường hướng về sự tự do.
Trên con đường đó “Thiên Chúa dẫn đưa dân Người trong sa
mạc” (c. 16). Các lời ngắn gọn này bao gồm kinh nghiệm kéo dài 40 năm, một thời
gian định đoạt đối với dân Israel, để được Chúa hướng dẫn và tập sống đức tin,
sự vâng phục và ngoan ngoan đối với Luật Chúa. Đó là các năm khó khăn của cuộc
sống trong sa mạc, nhưng cũng là những năm hạnh phúc, tín thác nơi Chúa như con
thảo. Đó là thời thanh xuân như ngôn sứ Giêrêmia định nghĩa: “Ta nhớ lại lòng
trung nghĩa của ngươi lúc ngươi còn trẻ, tình yêu của ngươi khi ngươi mới thành
hôn, lúc ngươi theo Ta trong sa mạc, trên vùng đất chẳng ai gieo trồng” (Gr
2,2). Trong bốn mươi năm Thiên Chúa đã giáo dục, yêu thương, dẫn đưa dân Israel
về Đất Hứa, và đã chiến thắng các kháng cự và sự thù nghịch của các dân tộc
khác đối với Israel.
Trong việc cử hành tình yêu ngàn đời của Thiên Chúa có biến
cố ban đất đai, mà dân Do Thái phải nhận lấy với lòng biết ơn, mà không bao giờ
chiếm làm sở hữu riêng của mình.
Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ: Cấu trúc của
thánh vịnh nhắn nhủ dân
Thế rồi cả trong 2.000 năm lịch sử của Giáo Hội, đã luôn
luôn có lòng nhân lành của Thiên Chúa, Thiên Chúa đã giải thoát chúng ta khỏi
nguy hiểm bách hại đen tối của chủ nghĩa đức quốc xã và cộng sản, và Người đã
chỉ cho chúng ta thấy rằng Người nhân lành, quyền năng, và lòng thương xót của
Người tồn tại muôn đời. Cũng như trong lịch sử tập thể, trong lịch sử cá nhân
ký ức về lòng nhân lành của Thiên Chúa trợ giúp chúng ta và trở thành ngôi sao
của niềm hy vọng dẫn lối. Vì thế cần phải luôn luôn nhớ tới các việc lớn lao mà
Thiên Chúa đã làm trong cuộc đời chúng ta để biết sống tin tưởng.
Thánh vịnh 136 kết thúc với lời mời: “Hãy tạ ơn Thiên Chúa
cửu trùng, vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (c. 26). Thiên Chúa là
Cha nhân lành và quan phòng; Người ban gia tài cho con cái Người và rộng ban
lương thực cho tất cả mọi người. Quyền năng vô hình của Thiên Chúa Tạo Hóa được
vén mở trong cái hữu hình bé nhỏ của bánh, Người ban cho chúng ta giúp chúng ta
sống. Bánh đó biểu tượng và tổng kết tình yêu thương của Thiên Chúa là Cha rộng
mở cho “bánh sự sống” của Tân Ước, là bí tích Thánh Thể, đồng hành với tín hữu
trong cuộc sống, và cho họ nếm hưởng trước tiệc cứu thế trên Trời.
Sau khi chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau Đức
Thánh Cha đã cất kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.
Linh Tiến Khải