Diễn văn
của Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI
trong
Ngày Thế giới cầu nguyện cho Hòa bình tại Assisi, 27-10-2011
Anh chị em thân mến,
Kính thưa Quý vị lãnh đạo
và đại diện của các Giáo Hội, các cộng đoàn Giáo Hội và các Tôn
giáo Thế giới,
Các bạn thân mến,
Hai mươi lăm
năm đã trôi qua kể từ khi Chân phước Giáo hoàng Gioan Phaolô II mời quý đại
diện của các tôn giáo trên thế giới đến
Vấn nạn về
những nguyên nhân của sự đảo ngược trên thật phức tạp và không dễ trả lời. Tuy
nhiên, bên cạnh những yếu tố kinh tế và chính trị, lý do sâu xa nhất của biến
cố này là yếu tố tinh thần: đằng sau quyền lực vật chất có lẽ chẳng còn xác tín
tinh thần nào. Rốt cuộc ý chí mong muốn được tự do lại mạnh hơn nỗi lo sợ bạo
lực, vốn chẳng còn vỏ bọc tinh thần nào nữa. Chúng ta biết ơn chiến thắng này
của tự do, mà trước hết cũng là chiến thắng của hòa bình. Cũng cần nói thêm
rằng trong bối cảnh ấy vấn đề không chỉ đơn thuần -và có lẽ cũng chẳng phải chủ
yếu- là tự do tín ngưỡng, mà là chính sự tự do. Vì lý do này, một cách nào đó
chúng ta cũng có thể liên kết tất cả những điều ấy với việc cầu nguyện cho hòa
bình.
Nhưng điều
gì đã xảy ra sau đó? Thật đáng buồn, chúng ta không thể nói được rằng từ đó
tình hình đã có tự do và hòa bình. Ngay cả nếu như mối đe dọa của một cuộc
chiến tranh lớn không ở ngay trước mắt, thì bất hạnh thay, thế giới cũng đầy
những bất hòa. Đây không chỉ là thực tế đó đây đang diễn ra nhiều cuộc chiến -
bạo lực luôn hiện diện tiềm ẩn và làm thành nét đặc trưng của hoàn cảnh thế
giới chúng ta. Tự do là một thiện ích lớn lao. Nhưng thế giới tự do phần lớn
lại tỏ ra chẳng có định hướng, và thậm chí nhiều người còn hiểu lầm tự do là tự
do gây bạo lực. Sự bất hòa mang những bộ mặt mới và đáng sợ, nên cuộc đấu tranh
cho hòa bình phải thúc đẩy tất cả chúng ta theo cách thức mới.
Chúng ta hãy
cố nhận dạng kỹ càng hơn những bộ mặt mới của bạo lực và bất hòa. Theo ý tôi,
nói chung có thể xác định hai kiểu bạo lực mới có động lực hoàn toàn trái
nghịch nhau và rất khác nhau trong chi tiết. Đầu tiên là sự khủng bố, trong đó,
thay vì một cuộc chiến tranh lớn, thì lại tấn công vào những mục tiêu quan
trọng của đối phương để hủy diệt, mà chẳng màng đến sinh mạng người vô tội bị
sát hại hay bị đả thương cách dã man.
Dưới mắt của
những người có trách nhiệm, mục đích to lớn của ý muốn gây thiệt hại cho đối
phương biện minh cho mọi hình thức tàn bạo. Tất cả những gì trong luật pháp
quốc tế được mọi người công nhận và phê chuẩn nhằm hạn chế bạo lực, đều bị gạt
ra ngoài. Chúng ta biết rằng khủng bố thường mang động cơ tôn giáo và chính
tính tôn giáo của các cuộc tấn công lại được sử dụng để biện minh cho tính tàn
ác phi nhân, vốn tự cho mình cái quyền gạt bỏ những luật lệ đạo đức nhằm đạt
được "điều tốt" đang theo đuổi. Ở đây tôn giáo không phục vụ cho hòa
bình, nhưng là để biện minh cho bạo lực.
Sự chỉ trích
tôn giáo, từ thời Khai sáng, đã nhiều lần dựa trên lập luận: tôn giáo là nguyên
nhân của bạo lực và như thế nó đã khơi lên sự thù địch với tôn giáo. Sự kiện
tôn giáo là nguyên do của bạo lực khiến những người có tôn giáo như chúng ta
phải quan tâm sâu xa. Một cách tinh tế hơn, nhưng vẫn xót xa, chúng ta thấy tôn
giáo như nguyên nhân gây ra bạo lực ngay cả khi bạo lực được những người bênh
vực tôn giáo dùng để chống lại những người khác. Những người đại diện của các
tôn giáo tham dự cuộc gặp gỡ
Người Kitô
hữu chúng tôi tin Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa và là Cha của mọi người, do đó mọi
người đều là anh chị em với nhau và làm nên một gia đình duy nhất. Thập giá của
Đức Kitô, đối với chúng tôi, không phải dấu chỉ của bạo lực, mà là sự biểu hiện
Thiên Chúa hiệp với con người cùng chịu đau khổ và yêu thương. Danh xưng của
Ngài là "Thiên Chúa của tình yêu và an bình" (2 Cr 13,11). Nhiệm vụ của tất cả những ai chịu trách nhiệm về niềm
tin Kitô giáo là, không ngừng thanh tẩy tôn giáo của người Kitô hữu, khởi đi từ
nội tâm, để – dù mang phận người yếu đuối– tôn giáo ấy phải thực sự là khí cụ
bình an của Thiên Chúa nơi trần gian.
Ngày nay,
nếu đã từng có một kiểu bạo lực mang động cơ tôn giáo, khiến các tôn giáo bị
đặt vấn đề về bản chất của mình và buộc chúng ta phải thanh tẩy, thì loại bạo
lực thứ hai, với nhiều hình thức, lại có động cơ hoàn toàn khác, hệ quả của
thái độ không tin và phủ nhận Thiên Chúa, đồng thời mất cả nhân tính. Những kẻ
thù của tôn giáo –như chúng ta đã nói– đã coi tôn giáo là nguyên nhân phát sinh
bạo lực trong lịch sử nhân loại và đòi phải thủ tiêu tôn giáo. Tuy nhiên sự phủ
nhận Thiên Chúa chỉ có thể sinh ra cái ác và bạo lực vô độ, bởi con người không
còn thừa nhận bất cứ chuẩn mực cũng như quan tòa nào ở trên mình. Con người lấy
mình làm chuẩn mực. Những trại tập trung kinh hoàng đã cho thấy rõ hậu quả của
việc loại bỏ Thiên Chúa.
Tuy nhiên, ở
đây tôi không bàn đến chủ nghĩa vô thần được quy định bởi Nhà nước, nhưng muốn
nói về hậu quả "sự suy đồi" của con người, kết quả của tình trạng
biến động về tinh thần, hiện đang là một thực tế, diễn ra lặng lẽ và vì thế lại
càng nguy hại hơn. Bản thân lòng tôn thờ tiền tài, của cải, quyền lực đã là một
đối nghịch với tôn giáo, không còn đếm xỉa đến con người, chỉ lo cho lợi ích riêng
mình. Khát vọng hạnh phúc, chẳng hạn, bị hạ thấp xuống mức chỉ còn là ham muốn
vô độ, không còn tính người trong việc sử dụng các loại ma túy. Đó là tình
trạng những kẻ có quyền thế buôn bán ma túy, tiếp đến là những người bị ma túy
quyến rũ rồi hủy hoại cả thể xác lẫn tinh thần. Bạo lực trở thành một điều bình thường và có nguy cơ làm hư hỏng nhiều người trẻ của chúng ta. Khi bạo lực đã trở thành bình thường, thì hòa bình bị tiêu diệt,
và khi hòa bình bị tiêu diệt, thì con người đang hủy hoại chính mình.
Việc vắng
bóng Thiên Chúa dẫn con người và tinh thần nhân văn đi đến chỗ sụp đổ. Vậy
Thiên Chúa ở đâu ? Chúng ta có nhận biết Thiên Chúa và giúp nhân loại một lần
nữa được nhận biết Ngài để xây dựng một nền hòa bình đích thực ? Trước hết, ở
đây, chúng tôi muốn trình bày tóm tắt những suy nghĩ của mình. Tôi đã nói đến
một quan niệm và thực hành tôn giáo đưa đến bạo lực. Trong khi đó, sức mạnh của
hòa bình là cuộc sống chính trực đưa con người hướng về Thiên Chúa. Vì thế, tôi
đã nêu lên sự cần thiết của việc đối thoại và đã nói tôn giáo luôn cần được
thanh tẩy. Đằng khác, tôi đã khẳng định việc chối bỏ Thiên Chúa sẽ hủy hoại
chính con người, phá bỏ mọi kỷ cương và đưa con người đến bạo lực.
Ngoài hai thực tại tôn giáo và chống tôn giáo,
trong một thế giới đang lan tràn chủ nghĩa bất khả tri, vẫn còn một
khuynh hướng khác: những người không được ban ơn đức tin nhưng vẫn tìm kiếm
chân lý, thì chính họ đang trên đường kiếm tìm Thiên Chúa. Những người
như thế không khẳng định một cách giản đơn: "Chẳng có Thiên Chúa nào
cả". Họ phải chịu tình cảnh vắng bóng Thiên Chúa, và khi đi tìm Chân,
Thiện, thì tự sâu xa trong cõi lòng, họ đang đi đến với Thiên Chúa. Họ là
"những người hành hương của chân lý và hòa bình". Họ đặt vấn đề cho
cả hai phía. Họ gạt phăng những khẳng định sai lầm của những người vô thần hiếu
chiến cho rằng không có Thiên Chúa, và mời những người vô thần này, thay vì
tung ra những luận chiến, hãy lên đường tìm kiếm để không mất đi niềm hy vọng
vẫn còn có chân lý và chúng ta có thể và luôn phải sống theo chân lý. Những
người này cũng còn đặt vấn đề với tín đồ các tôn giáo để họ không coi Thượng Đế
là vật sở hữu của riêng mình, đến mức cảm thấy mình được phép dùng bạo lực đối
với người khác. Những người này đi tìm chân lý, kiếm tìm vị Thiên Chúa đích thực
mà hình ảnh của Ngài vẫn còn bị che khuất qua cách thực hành của các tôn giáo.
Chớ gì họ sẽ không gặp phải một Thiên Chúa với hình ảnh đã bị các tín đồ xuyên
tạc, bóp méo. Như vậy, cuộc chiến đấu nơi nội tâm và việc đặt vấn đề của họ
cũng chính là lời mời gọi các tín đồ phải thanh tẩy niềm tin của mình, để Thiên
Chúa –Thiên Chúa đích thực– trở nên gần gũi, có thể đến được với Ngài. Vì lẽ
đó, tôi đặc biệt mời quý vị đại biểu cho nhóm thứ ba này đến với cuộc gặp gỡ
tại Assisi, không chỉ nhằm quy tụ quý đại biểu tôn giáo, mà chính là để cùng
tìm lại nhau trong cuộc hành hương tiến đến chân lý, quyết tâm cùng dấn thân
phục vụ phẩm giá con người và nền hòa bình, chống lại mọi hình thức bạo lực phá
hại quyền con người.
Để kết luận,
tôi bảo đảm rằng Giáo hội Công giáo sẽ
không từ bỏ cuộc chiến chống lại bạo lực và sự dấn
thân cho nền hòa bình trên thế
giới. Chúng tôi được thúc đẩy bởi mong muốn chung là được làm "những người
hành hương của sự thật và hòa bình".
(vatican.va)
Chuyển dịch:
Đức Thành