Khoan nhượng có thể
là con dao hai lưỡi
Radiovaticana 28/11/2011 13.55.57 – Một số nhận định của Linh
Mục triết gia Paul Gilbert về sự khoan nhượng như con dao hai lưỡi
Trong các ngày 16-19 tháng 11 năm 2011, cuộc hội thảo quốc tế về đề
tài “Con người thời tân tiến và Giáo Hội” đã diễn ra tại đại học giáo hoàng
Gregoriana ở Roma. Đại hội thảo luận về bốn lãnh vực: Giáo Hội và thế giới tân
tiến, nền thần học tân thời, các mô thức khoa học, tính cách chủ quan đáng lo
ngại. Tham dự đại hội đã có nhiều học giả đến từ khắp nơi trên thế giới. Trong
số các thuyết trình viên ngoài linh mục Paul Gilbert, tân phân khoa trưởng phân
khoa triết đại học giáo hoàng Gregoriana, có các vị khác như các giáo sư Michael
Gallagher, Laurence Devillaire, Eberhard Schokenhoff, José Funes, Peter Henrici
và Đức Hồng Y Gianfranco Ravasi, Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh Văn Hóa.
Cha Glibert cho biết tâm thức của con người tân tiến ngày nay là tự
đặt mình vào trung tâm thế giới, coi Thiên Chúa là vô ích, và tự cho mình là
tác nhân của tất cả mọi sự, có trách nhiệm đối với sự thiện và sự ác. Đây là
các vấn đề vô tận đã dấy lên một cuộc thảo luận trong Giáo Hội ngay từ hồi thế
kỷ XVIII. Chúng tiếp tục cật vấn xã hội và cộng đoàn tín hữu ngày nay.
Theo cha Gilbert ngày nay có các căng thẳng trong Giáo Hội. Chúng
nảy sinh từ khó khăn hiểu biết tương quan giữa Giáo Hội và thế giới tân tiến.
Vì thế cha hy vọng cuộc gặp gỡ giữa các nhà nghiên cứu và các giáo sư thuộc
nhiều bộ môn khác nhau có thể đem lại lại một chút ánh sáng, bằng cách minh
nhiên tất cả các khía canh của sự tân tiến trong tương quan với con người và
với Giáo Hội, cả trong nghĩa tích cực, chứ không phải chỉ trong nghĩa tiêu cực
như vẫn thường thấy từ trước tới nay.
Cha Paul Gilbert đậu tiến sĩ thần học tín lý tại đại học giáo hoàng
Gregoriana năm 1979. Năm 1983 cha lấy thêm bằng tiến sĩ triết học tại đại học
Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định
của cha Paul Gilbert, tân khoa trưởng phân khoa triết đại học giáo hoàng
Gregoriana ở Roma về cuộc hội thảo nói trên.
Hỏi: Thưa cha Gilbert, như thế các tham dự viên đại hội về đề tài
“Con người thời tân tiến và Giáo Hội” nói trên không chỉ dừng lại trên tương
quan giữa khoa học và đức tin, mà còn thảo luận nhiều vấn đề khác nữa, có đúng
thế không?
Đáp: Đúng thế, vì sự tân tiến không chỉ liên quan tới khoa học, mà cũng
liên quan tới tất cả các biểu hiện của tư tưởng, của nền văn hóa và của văn
chương nữa. Sự tân tiến áp đặt chủ thể như trung tâm mọi sự, đồng thời chính
với sự tân tiến nảy sinh ra việc phê bình hành động của chủ thể, trước đó đã
không hề được chú ý. Song song cũng phải duyệt xét sự kiện sự tân tiến là thừa
tự của một tiến trình tục hóa đã bắt đầu các di chuyển của nó trong thời trung
cổ, là giai đoạn trong đó toàn nền văn hóa được Giáo Hội dẫn đầu, nhưng với các
chia rẽ rất sâu đậm giữa các đại học, các trường đan viện... Tư tưởng tân tiến
bắt đầu soạn thảo việc cần thiết khiến cho các chia rẽ đó chung sống với
nhau... Từ lúc đó trở đi nảy sinh ra ý niệm đối thoại và khoan nhượng. Cũng
chính nhờ các nhân vật như Galilei và các thánh như thánh Bellarmino.
Hỏi: Có thể coi sự khoan nhượng như là một giá trị kitô hay không
thưa cha?
Đáp: Tình yêu thương chắc chắn là điều tích cực rồi. Nhưng sự khoan
nhượng có thể là điều tiêu cực. Tình yêu thương tìm tôn trọng các ý kiến của
người khác, và trong ý hướng đó nó khiến cho con người đồng hành với nhau. Sự
khoan nhượng dành khoảng trống cho người khác.
Hỏi: Tư tưởng chung thường coi sự khoan nhượng như là giá trị cao
nhất trong các giá trị của cuộc sống chung dân sự, có phải vậy không?
Đáp: Với sự tân tiến và việc nảy sinh ra các quốc gia gương mặt của nhà
nước được chồng lên trên gương mặt của các tôn giáo. Sau kinh nghiệm của các
cuộc chiến tôn giáo, người ta nghĩ rằng nhà nước phải ở bên trên, và trở thành
cơ cấu bảo đảm cho sự chung sống mà không bước vào trong các khác biệt. Sự
khoan nhượng được đặt để vào việc phục vụ hòa bình.
Hỏi: Trong nghĩa này thì sự khoan nhượng là điều tích cực, đó đúng
thế không, thưa cha?
Đáp: Đương nhiên rồi. Tuy nhiên trên thực tế, người ta không tìm hòa
bình, mà tìm sự yên ổn xã hội, qua một sự giàn xếp thờ ơ với số đông. Trong
nghĩa này sự khoan nhượng cũng có thể trở thành “công an cảnh sát”, vì nó xa lạ
và không để ý tới số đông.
Hỏi: Nghĩa là sự khoan nhượng đó là một quan niệm về nhà nước và sự
yên ổn xã hội không làm cho tín hữu kitô được thỏa mãn?
Đáp: Hãy nói rằng nó không khiến cho kitô hữu thỏa mãn đủ, bời vì qua
nó người ta tạo ra một tâm thức của sự thờ ờ giữa con người đối với nhau. Đức
tin kitô được ghi dấu bởi sự tôn trọng các khác biệt trong việc đối thoại,
trong việc đi tới với người khác.
Hỏi: Như thế có nghĩa là không phải sự nhân nhượng nào cũng theo
tinh thần kitô?
Đáp: Đức tin kitô dựa trên hai mô thức quy chiếu nền tảng: mô thức quy
chiếu thứ nhất là niềm tin nơi Thiên Chúa Ba Ngôi, là Thiên Chúa duy nhất trong
sự hiệp thông. Mô thức quy chiếu nền tảng thứ hai đã được Công Đồng Chung
Calcedonia năm 381 xác định và minh giải: đó là bản tính hai chiều kích của
Chúa Kitô, được hiểu như là Thiên Chúa thật và người thật, mà không phân chia,
không lẫn lộn. Tất cả nằm trong việc tôn trọng sự khác biệt, trong tình yêu
thương của sự khác biệt, không thờ ơ. Sự khoan nhượng, trái lại, được hiểu như
là sự thờ ơ đối với tha nhân: điều họ nghĩ không dính dáng đến tôi.
Hỏi: Và đây là một vấn đề khổng lồ của sự tân tiến, một khối đá đè
nặng trên con người, có đúng thế không thưa cha?
Đáp: Giáo Hội hoàn toàn ý thức được điều này. Chính vì thế trong bài
diễn văn đọc trước Liên Hiệp Quốc hồi năm 1968, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã chỉ
cho thấy Giáo Hội như là thầy dậy của nhân loại. Vấn đề là sự tân tiến, khi
chặt đứt các cây cầu với Thiên Chúa, thì cũng đã chặt đứt tương quan với Giáo
Hội. Nền chính trị không còn ở dưới trật tự của Thiên Chúa nữa. Con người tự
đặt mình vào trung tậm như là tác giả duy nhất của sự thiện và sự ác. Con người
tiếm đoạt quyền của Thiên Chúa.
Hỏi: Như vậy trong điều này có cái gì tích cực không thưa cha?
Đáp: Trong chương 1 sách Sáng Thế Thiên Chúa mời gọi con người thống
trị mọi thụ tạo. Đây là bản chất thái độ tân tiến. Với sự tân tiến con người
lãnh trách nhiệm đối với các vấn đề của mình, đối với tật bệnh, đối với sự
dữ... sau một tiến trình chậm của ý thức, đã khởi đầu từ nhiều thế kỷ trước; tự
nó tiến trình này không phải là điều tiêu cực, nếu không thì Thánh Kinh đã
không để “sự tiến bộ” ngay từ đầu lịch sử nhân loại.
Hỏi: Nhưng mà đụng độ giữa Giáo Hội và sự tân tiến đã kéo dài và
các hậu qủa của nó cũng tồn tại thưa cha...
Đáp: Có lẽ bởi vì Giáo Hội đã mất đi một chút ý thức về tôn giáo. Đã có
các hàm hồ không rõ ràng khổng lồ. Chính hàng giáo phẩm thời đó đã không “sáng
gía” lắm...
Ý tưởng của đại hội này nằm trong đường hướng của Công Đồng Chung
Vaticăng II, được Đức Thánh Cha Biển Đức XVI tái đề nghị một cách mạnh mẽ. Giáo
Hội đề nghị từng người tìm lại phẩm giá là người của mình, tái chiếm hữu sự
hiểu biết bổn phận phải là người, hiểu biết cái gì tốt cho mình và cho toàn
nhân loại. Khuynh hướng chủ quan nảy sinh từ sự tân tiến không còn nữa. Không
có ai còn có trách nhiệm đối với điều gì nữa. Trong thực tế nền văn hóa ngày
nay đang trốn chạy chính mình. Nó không có trách nhiệm nữa và khiến cho người
ta vô trách nhiệm. Giáo Hội đề nghị tìm lại sự đúng đắn của một ý thức chủ thể
mới, không đóng kín trong chính mình, nhưng có khả năng liên minh với người
khác để xây dựng xã hội.
Hỏi: Thưa cha, trong cái luận lý này người ta gặp được Thiên Chúa ở
đâu?
Đáp: Lương tâm tìm lại được phẩm gía của nó thì ở trong một thế giới
tinh thần. Chính trong đó mà con người sống kinh nghiệm về Thiên Chúa, là Đấng
mời gọi con người sống sự thiện đối với tha nhân, là Đấng tự trao ban trong
tình yêu... mà không lẫn lộn và không phân rẽ.
(Avvenire 11-11-2011)
Linh Tiến Khải