Mọi sự đều qua đi, chỉ có Thiên Chúa là vĩnh cửu
radiovaticana 02/02/2011 18.34.55 – Tất cả mọi sự thuộc về
đời này đều qua đi, chỉ có Thiên Chúa là vĩnh cửu. Trong một thế giới thường
thiếu vắng các gía trị tinh thần thánh nữ Têrêxa thành
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên trước 5.000 tín
hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ chung trong đại thính
đường Phaolô VI sáng thứ tư 2-2-2011.
Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha bắt đầu một loạt bài giáo
lý mới giới thiệu các Thánh Tiến Sĩ của Giáo Hội, trước hết là thánh nữ Têrêsa
thành Avila, là vị thánh diễn tả một trong các đỉnh cao nhất của nền tu đức
kitô thuộc mọi thời đại. Đề cập tới tiểu sử của thánh nữ Đức Thánh Cha nói:
Người sinh tại Avila, bên Tây Ban Nha, năm 1515 với tên gọi
là Têrêxa de Ahumada. Trong cuốn tự thuật, chính thánh nữ đã cung cấp cho chúng
ta vài chi tiết về thời thơ ấu của mình: sinh ra từ “cha mẹ nhân đức và kính sợ
Thiên Chúa”, trong một gia đình đông con có 9 anh em trai và 3 chị em gái. Khi
còn nhỏ chưa đầy 9 tuổi, Têrêxa đã đọc cuộc đời của vài vị tử đạo và ao ước
được chết vì đạo, đến nỗi đã bỏ nhà trốn đi để chết vì đạo và lên Trời, vì chị
muốn trông thấy Thiên Chúa (x.Vita 1,4).
Vài năm sau, khi nói về các sách đọc thời thơ ấu Têrêxa
khẳng định là đã khám phá ra sự thật bao gồm hai nguyên tắc: một đàng là “sự
kiện tất cả những gì thuộc về đời này đều qua đi, đàng khác chỉ có Thiên Chúa
là vĩnh cửu, vĩnh cữu, vĩnh cửu”.
Các sách đời đọc thời thanh xuân đã khiến cho Têrêxa có
cuộc sống thế tục, nhưng kinh nghiệm là nữ sinh trường các nữ tu thánh Agostino
“Đức Maria ban ơn” ở Avila đã khiến cho nàng đọc các sách thiêng liêng, đặc
biệt là các tác gỉa cổ điển của nền tu đức phan sinh, và chúng dậy nàng sự
thinh lặng và cầu nguyện. Năm 20 tuổi Têrêxa gia nhập đan viện cát minh Nhập
Thể. tại
Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Năm 1543 chị mất
dần các người thân: trước hết thân phụ qua đời, rồi các anh em trai cũng lần
lượt di cư sang Mỹ hết. Mùa Chay năm 1554 khi 39 tuổi, chị đạt tột đỉnh cuộc
chiến đấu chống lại các yếu đuối của mình. Việc khám phá ra một bức tượng “Chúa
Giêsu mang nhiều thương tích” đã gây ấn tượng rất mạnh mẽ nơi chị, và chị được
sống kinh nghiệm thần bí: bất thình lình chị cảm nhận được sự hiện diện sâu xa
của Thiên Chúa nơi chị và và hoàn toàn bị Ngài thú hút (Vita 10,1).
Song song với việc trưởng thành nội tâm, chị thánh bắt đầu
phát triển một cách cụ thể lý tưởng cải cách Dòng Cát Minh. Năm 1562 chị thành
lập đan viện Cát Minh cải cách đầu tiên tại Avila, với sự ủng hộ của Đức Cha
Alvaro de Mendoza, Giám Mục sở tại. It lâu sau đó, chị được sự phê chuẩn của
Cha Giovanni Battista Rossi, Bễ Trên Tổng quyền dòng Cát Minh. Trong các năm
tiếp theo, chị thành lập 17 đan viện cải cách khác.
Cuộc găp gỡ với thánh Gioan Thánh Giá đã khiến cho chị cùng
với thánh nhân thành lập đan viện Cát Minh Ngặt Phép đầu tiên tại Duruelo gần
Trong phần hai của bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã nói về các
tác phẩm và nền tu đức của thánh nữ Têrêxa thành
Tác phẩm thần bí nổi tiếng nhất là cuốn “Lâu đài nội tâm”
biên soạn năm 1577, trong tuổi trường thành. Nó vừa đọc lại con đường cuộc sống
thiêng liêng của chị, vừa cô đọng cuộc sống kitô hướng tới sự toàn vẹn, sự
thánh thiện, dưới hoạt động của Chúa Thánh Thần. Lâu đài nội tâm là việc xây
dựng 7 phòng, giống như tiến trình con nhộng trở thành con bướm. Phòng cuối
cùng là tột đỉnh của cuộc sống kitô, với 4 chiều kích của nó là ba ngôi, kitô,
nhân chủng và giáo hội. Cuốn “Sách các vụ thành lập”, viết giữa các năm 1573 và
1582, trình bầy các sinh hoạt thành lập và cuộc sống tại các đan viện cát minh
cải cách.
Rồi Đức Thánh Cha đã nói về nền tu đức của thánh nữ Têrêxa
thành Avila như sau: Trước hết thánh nữ Têrêxa đề nghị các nhân đức tin mừng
như nền tảng của toàn cuộc sống kitô và nhân bản: đặc biệt là sự không dính bén
với của cải hay đức khó nghèo theo tinh thần tin mừng, và điều này liên quan
tới tất cả chúng ta; tình yêu thương nhau như yếu tố nòng cốt của cuộc sống
cộng đoàn và xã hội; lòng khiêm nhường như tình yêu đối với sự thật; sự cương
quyết như hoa trái của tính táo bạo kitô; đức hy vọng như việc khát khao nước
hằng sống. Cũng không được quên các nhân đức nhân bản như sự dễ thương, tính
chân thật, lòng khiêm tốn, sự nhã nhặn, tươi vui, và hiểu biết văn hóa.
Nét đặc thù thứ hai: thánh nữ đề nghị kiểu sống phù hợp với
các nhân vật lớn trong Thánh Kinh và thái độ sống động lắng nghe Lời Chúa. Đặc
biệt thánh nữ cảm thấy mình đồng điệu với Hiền Thê trong sách Diễm Ca, với Tông
Đồ Phaolô và nhất là với Chúa Kitô khổ nạn và Chúa Giêsu Thánh Thể. Chị Têrêxa
đặc biệt nhấn mạnh lời cầu nguyện: cầu nguyện có nghĩa là “tương giao với tình
bạn, bởi vì chúng ta liên hệ mặt đối mặt với Đấng, mà chúng ta biết Người yêu
thương chúng ta” (Vita 8,5). Nó là sự sống và nó phát triển cùng với cuộc sống
kitô, bắt đầu với lời cầu nguyện thành tiếng, rồi bước vào việc nội tâm hóa với
việc suy gẫm và thinh lặng cho tới chỗ kết hiệp yêu thương với Chúa Kitô và
Thiên Chúa Ba Ngôi Rất Thánh. Đây không phải là việc leo thang, bước lên bậc
trên và bỏ kiểu cầu nguyện có trước, nhưng là một việc đào sâu từ từ tương quan
của chúng ta với Thiên Chúa kéo dài suốt cuộc sống. Thánh nữ Têrêxa không chỉ
dậy cầu nguyện, mà chị cùng cầu nguyện với người đọc: chị thường ngưng điều
đang trình bầy để mời người đọc cầu nguyện với chị.
Còn một điểm khác nữa trong nền tu đức của chị thánh Têrêxa
Đức Thánh Cha kết thúc bài huấn dụ như sau: Anh chị em thân
mến, trong xã hội thường thiếu vắng các gía trị tinh thần của chúng ta, thánh
nữ Têrêxa dậy cho chúng ta biết không mệt mỏi làm chứng cho Thiên Chúa, cho sự
hiện diện và hoạt động của Ngài. Chị thánh dậy cho chúng ta cảm nhận được nỗi
khát khao Thiên Chúa hiện diện trong tận cùng thẳm con tim chúng ta, sự ước
mong trông thấy Thiên Chúa, tìm kiếm Ngài, nói chuyện với Ngài và trở thành bạn
hữu của Ngài. Đó là tình bạn cần thiết cho tất cả chúng ta, mà chúng ta phải
tìm kiếm từng ngày.
Mọi người trong đại thính đường Phaolô VI đã vui vẻ vỗ tay
hoan hô, khi có một chú bé mấy tuổi từ dưới chạy lên đứng trước mặt Đức Thánh
Cha lúc ngài vừa kết thúc lới chào các tín hữu bằng tiếng Anh. Đức Thánh Cha đã
vuốt ve, nói chuyện và chúc lành cho chú bé. Sau cùng ngài đã cất kinh Lậy Cha
và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.
Linh Tiến Khải