Hiện tình chính trị xã hội tôn giáo Etiopia
Radiovaticana 21/02/2011 16.31.07 – Một
số nhận định của Đức Paulos III, Thượng Phụ Chính Thống Etiopia
về hiện tình chính trị xã hội và tôn giáo tại đây
Trong khi làn sóng dân chủ đang làn tràn
và dâng cao tại các quốc gia thuộc khối A rập Bắc phi cũng như vùng Trung Đông,
thì Etiopia và Eritrea trong vùng Sừng Phi châu vẫn sống trong tình trạng căng
thẳng quan hệ, đặc biệt tại vùng biên giới giữa hai bên.
Etiopia rộng hơn 1 triệu 133 ngàn cây số
vuông có hơn 80 triệu dân, 61,6% theo Kitô giáo, trong đó có 50,6% theo Chính
Thống giáo, 10,1% theo Tin Lành, 0,9% theo Công Giáo. Số còn lại 32,8% theo Hồi
giáo và 5,6% theo đạo thờ vật linh. Tuổi thọ trung bình của người dân là 58.
Người dân Etiopia thuộc nhiều chủng tộc khác nhau như: Oromo hay Galla chiếm
40% tổng số dân, Amhara chiếm 32%, Sidama 9%, Tigrè 7%, Shankella 6%, Somali
6%, Afar 4% Gurage 2%.
Trên bình diện nhân chủng và khảo cổ,
Etiopia nổi tiếng với các khám phá ra các bộ xương người rất cổ xưa chứng minh
cho thấy gốc gác của loài người.
Vào năm 1973 các nhà khảo cổ Yves
Coppens, Donald Johanson, Maurice Taieb và Tom Gray đã tìm thấy tại Afar, bên
Etiopia, một bộ xương phụ nữ sống cách đây 3,2 triệu năm. Phụ nữ này chết có lẽ
vì kiệt lực bên một đầm lầy. Xương chìm xuống bùn và với dòng thời gian biến
thành đá cứng. Các nhà khảo cổ đặt tên cho bà là Lucia.
Vào năm 1975 các nhà khảo cổ cũng tìm
thấy bên Etiopia 13 bộ xương người khác thuộc mọi lứa tuổi và cũng sống cách
đây khoảng 3,2 triệu năm.
Hồi thập niên 1990 Etiopia bị khủng
hoảng kinh tế nặng, vì chiến tranh kéo dài giữa Etiopia và
Eritrea là phần duyên hải của Etiopia,
rộng khoảng 120 ngàn cây số vuông, có khoảng 4 triệu dân, nhưng bị chính quyền
thực dân Italia tách rời khỏi Etiopia năm 1890. Sau khi đệ nhị thế chiến chấm
dứt, Eritrea được tái hiệp nhất với Etiopia, nhưng nội chiến đã bùng nổ và kéo
dài 30 năm từ năm 1961 đến 1991. Trong khi Etiopia trở thành quốc gia siêu chư
hầu của Hoa Kỳ, và nhận được tới 48% tổng số tiền Hoa Kỳ tài trợ cho các nước
Phi châu, thì Eritrea lại lựa chọn con đường độc lập và năm 1993 Eritrea lại
tách rời khỏi Etiopia. Kể từ đó
Vị trí địa lý chính trị và chiến thuật
của
Quân đội Etiopia được Hoa Kỳ và Isrel
yểm trợ đã xua quân xâm lăng
Lịch sử Etiopia thật không may mắn, vì
hồi thế kỷ XX khi quân đội Italia xâm lăng nước này, họ đã dùng hơi ngạt để sát
hại hàng ngàn người dân vô tội. Tiếp đến trong các năm 1977-1991 người dân phải
sống trong kinh hoàng dưới chế độ độc tài của ông Menghistu, là chế độ đã sát
hại 1,5 triệu người gồm các nhà đối lập, thường dân, linh mục, và cả các Thượng
Phụ nữa. Đức Thượng Phụ Theophilos đã bị giết năm 1977 sau một năm bị nhốt tù.
Hai nạn đói năm 1974 và 1984-1985 đã khiến cho 1,5 triệu người khác phải chết,
và sau đó là chiến tranh với
Kitô giáo Etiopia bắt nguồn từ cuộc gặp
gỡ giữa hoạn quan người Etiopi và Tông Đồ Philiphê như kể trong sách Công Vụ
8,27-40. Sau khi được Tông Đồ Philiphê giảng giải cho hiểu biết các lời tiên
tri của ngôn sứ Isaia liên quan tới Đấng Cứu Thế là Đức Giêsu Kitô, chính vị
hoạn qan này đã xin chịu phép rửa. Và sau đó hẳn chính ông đã rao giảng Tin
Mừng cho các người đồng hương, khiến cho Giáo Hội Kitô Etiopia thành hình từ
đó.
Tuy nhiên, có người cho rằng nguồn gốc
của Kitô giáo Etiopia còn cổ xưa hơn nữa, vì đã bắt đầu với ông vua mặt đen,
tức một trong ba nhà đạo sĩ, là người Etiopi, đã nhận ra ngôi sao sáng và tìm
đến thờ lậy Vị Vua Cứu Thế mới giáng sinh tại Bếtlêhem. Sau khi ra về, chính
ông đã loan báo Chúa Giêsu Cứu Thế cho mọi người đồng hương ông gặp.
Nhưng theo Đức Thượng Phụ Abuna Paulos
III, Giáo chủ Giáo Hội Chính Thống Etiopi, thì Giáo Hội Etiopia đã có lịch sử
dài 3.000 năm, vì đã bắt đầu vào năm 1.000 trước công nguyên. Nghĩa là từ thời
hoàng hậu
Sách Các Vua I chương 10 và sách Sử Biên
II chương 9 cũng như sách Kebra Nagast của Etiopia kể rằng hoàng hậu Saba nghe
danh sự khôn ngoan của vua Salomog nên ngưỡng mộ tìm đến viếng thăm, đem theo
rất nhiều lễ vật, vàng và đá qúy (1 V 10,1-13; 2 Sb 9,1-12). Sách Kebra Nagast
còn cho biết vua Salomong đã có một con trai với hoàng hậu
Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và
các bạn một số nhận định của Đức Paulos III, Thượng Phụ Chính Thống Etiopia, về
hiện tình chính trị xã hội và tôn giáo tại đây.
Hỏi: Thưa Đức Thượng Phụ, Giáo Hội Chính
Thống Etiopia nắm giữ vai trò nào và có ý nghĩa gì trong bối cảnh hiện nay của
Etiopia?
Đáp: Đây là hoa trái của một lịch sử dài và
được chúc phúc. Chúng tôi, trong sự tiếp nối với cộng đoàn do thái, chúng tôi
đã duy trì được một đức tin sống động, với các tu viện, hiện diện trong mọi
làng mạc, và chúng tôi sống gần gũi với dân chúng. Điều này khiến cho chúng tôi
tiếp xúc chặt chẽ với các truyền thống khác một cách hòa bình, không xung khắc
chiến tranh. Tôi xin đơn cử một thí dụ. Hồi thế kỷ thứ VII các tín hữu hồi bị
bách hại trong quê hương của họ đã chạy trốn, và Etiopia là nơi đầu tiên đồng
thời cũng là nơi duy nhất tiếp đón họ. Nếu Thiên Chúa đã muốn chúng tôi sinh
sống tại đây, dìm mình giữa các tín hữu Hồi giáo, thì đó là để chúng tôi là
Giáo Hội của hòa bình, của sự sống chung hòa bình. Tại Etiopia đã không bao giờ
có cuộc chiến tôn giáo nào.
Hỏi: Đức Thượng Phụ Abuna Theophilos, vị
tiền nhiệm của Đức Thượng Phụ, đã bị tổng thống Menghistu sát hại. Chính Đức
Thượng Phụ cũng đã bị nhốt tù trong nhiều năm trời. Giáo Hội Chính Thống
Etiopia có phải là một Giáo Hội tử đạo không?
Đáp: Đó đã là 17 năm đen tối dầy đặc. Giáo
Hội đã là mục tiêu đầu tiên của sự thù ghét của ông Menghistu, là người biết
rất rõ Giáo Hội đâm rễ sâu trong lòng người dân thế nào, và có khả năng kháng
cự lại ông ta ra sao. Dĩ nhiên, hiện nay chúng tôi đã sống lại, nhưng cũng như
Chúa, chúng tôi còn mang các vết thẹo trên khắp thân mình. Tôi đã bị tù 8 năm,
rồi sau đó tôi phải sống lưu vong bên Hoa Kỳ. Không dễ mà giải thích được, đức
tin và đức cậy đã nâng đỡ chúng tôi, và giờ đây chúng tôi hướng nhìn về phía
trước.
Hỏi: Thưa Đức Thượng Phụ, sau các năm bị
đàn áp gắt gao, Giáo Hội giờ đây sống một giai đoạn tái sinh, có đúng thế
không?
Đáp: Vâng. Tôi tin rằng điều này có đựơc
cũng là nhờ sự kiện chúng tôi trung thành với dân chúng và với ơn gọi của chúng
tôi. Chúng tôi đã cùng chịu đau khổ với dân chúng; trong một vài trường hợp
chúng tôi đã phải trả giá bằng cái chết. Và hiện nay càng ngày càng có nhiều
người tới với Giáo Hội: có những người đã xa rời Giáo Hội có khi vì sợ chết,
hiện đang trở về với Giáo Hội. Nhiều người khác nữa, trong các giai đoạn khó
khăn và tàn ác, đã nhìn lên chúng tôi như suối nguồn duy nhất của lòng xót
thương. Họ kiếm tìm lời khuyên nhủ, sự ủi an từ phía chúng tôi, và họ đã tìm
được điều họ mong ước.
(Avvenire 13-2-2011)
Linh Tiến Khải