Chỉ nơi Thiên Chúa con người mọi thời
đại mới tìm ra ý nghĩa cuộc sống của mình
radiovaticana 11/05/2011 17.55.45 – Chỉ nơi Thiên Chúa con người
mới tìm ra ý nghĩa cuộc sống của mình, vì con người được tạo dựng nên giống
hình ảnh của Thiên Chúa và nó ước mong Thiên Chúa. Lời cầu nguyện diễn tả nỗi
ước mong đó của con người.
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khẳng định như trên trước 20.000 tín
hữu và du khách hành hương năm cnâu trong buổi tiếp kiến tại quảng trường thánh
Phêrô, sáng thứ tư 11-5-2011.
Trong bài huấn dụ ngài đã tiếp tục nói về lời cầu nguyện và ý thức
tôn giáo như là thành phần cuộc sống con người trong suốt lịch sử của nó. Mở
đầu bài huấn dụ ngài nói:
Chúng ta sống trong một thời đại trong đó hiển nhiên có các dấu vết
của khuynh hướng tục hóa. Thiên Chúa xem ra biến mất ở chân trời của nhiều
người, hay trở thành một thức tại mà người ta thờ ơ với nó. Nhưng đồng thời
chúng ta cũng nhận ra nhiều dấu chỉ cho thấy một sự thức tỉnh tôn giáo, việc
tái khám phá ra tầm quan trọng của Thiên Chúa đối với cuộc sống con người, một
đòi buộc tinh thần để thắng vượt một quan niệm thuần túy chiều ngang, vật chất
về cuộc sống con người. Khi nhìn vào lịch sử mới đây, người ta nhận ra sự thất
bại của những người từ thời chủ thuyết thiên quang luận đã báo trước rằng các
tôn giáo sẽ biến mất và đã đề cao một lý trí tuyệt đối, tách rời khỏi đức tin,
một lý trí sẽ đánh đuổi các bóng tối của khuynh hướng tín điều tôn giáo và làm
tan thế giới cảu sự thánh thiêng, trao trả lại cho con người sự tự do, phẩm giá
và sự tự lập của nó đối với Thiên Chúa. Kinh nghiệm của thế kỷ vừa qua với hai
thế chiến thê thảm đã gây khủng hoảng cho sự tiến bộ mà con lý trí tự lập đó,
mà con người không có Thiên Chúa đó xem ra có thể bảo đảm được.
Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã trích giáo huấn của Giáo Lý
Giáo Hội Công Giáo khẳng định rằng qua việc tạo dựng Thiên Chúa kêu gọi mọi
sinh vật từ hư không bước vào sự hiện hữu... Cả sau khi vì tội lỗi con người đã
đánh mất đi sự giống Thiên Chúa của mình, nó vẫn là hình ảnh của Đấng tạo dựng
ra nó. Nó duy trì ước muốn Đấng đã gọi nó vào đời. Mọi tôn giáo đều làm chứng
cho sự kiếm tìm nòng cốt ấy của con người” (s. 2566). Chúng ta có thể nói rằng
đã không có nền văn minh lớn nào từ thời xưa cho tới ngày nay, mà đã không có
tôn giáo.
Tự bản chất của nó, con người là tôn giáo cũng như con người khôn
ngoan và con người sáng chế. Ước muốn Thiên Chúa được khắc ghi trong trái tim
của con người, bởi vì con người đã được Thiên Chúa tạo dựng và được tạo dựng
cho Thiên Chúa (s. 27). Hình ảnh của Thiên Chúa được khắc ghi trong bản chất
con người và nó cám thấy cần phải tìm ra một ánh sáng để trả lời cho các vấn
nạn liên quan tới ý nghĩa sâu thẳm của thực tại, câu trả lời mà nó không thể
tìm thấy nơi chính mình, trong sự tiến bộ hay trong khoa học thực nghiệm. Đó là
lý do tại sao nảy sinh ra các hình thái tôn giáo khác nhau nhằm trả lời cho ước
mong của sự tràn đầy, của hạnh phúc, của nhu cầu được cứu rỗi, và kiếm tìm ý
nghĩa cuộc sống. Con người kỹ thuật số cũng như con người của các hang động tìm
trong kinh nghiệm tông giáo các con đường để vượt thắng sự hữu hạn của mình, và
bảo đảm cho cuộc mạo hiểm tạm bợ trên trần gian này. Ngoài ra, một cuộc sống
không có chân trời siêu việt sẽ không có một ý nghĩa trọn vẹn và niềm hạnh phúc
mà tất cả chúng ta đều hướng tới. Tuyên ngôn của Công Đồng Chung Vaticăng II về
liên lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo đã tóm tắt chờ mong đó
của con người như sau: ”Con người mong đợi các tôn giáo giải đáp về những bí
nhiệm tiềm ẩn trong thân phận con người, những bí nhiệm xưa nay vẫn làm tâm hồn
họ phải xao xuyến sâu xa: con người là gì? Đời người có mục đích và ý nghĩa
nào? Sự thiện và tội ác là chi? Đâu là nguyên nhân và mục đích của đau khổ? Đâu
là con đường dẫn tới hạnh phúc thực sự? Cái chết, sự phán xét, và thưởng phạt
sau khi chết là gì? Sau cùng, cái huyền nhiệm tối hậu khôn tả vẫn bao trùm cuộc
sống chúng ta là chi, chúng ta phát xuất từ đâu và chúng ta hướng về đâu?” (NA
1). Con người biết biết nó không thể một mình trả lời cho các vấn nạn này. Nó
cần rộng mở cho một cái gì, hay cho một ai khác có thể ban cho nó cái nó thiếu.
Và Đức Thánh Cha khai triển điểm này như sau: Con người mang trong
mình một khát vong sự vô tận, một nỗi nhớ nhung sự vĩnh cửu, một kiếm tìm vẻ
đẹp, một ước mong tình yêu, một nhu cầu ánh sáng và sự thật đẩy nó tới với Đấng
Tuyệt Đối: con người mang trong mình ước mong Thiên Chúa. Và trong một cách thức
nào đó, con người biết nó có thể hướng tới Thiên Chúa và cầu khấn Ngài. Thánh
Toma thành Aquino, một trong các thần học gia lớn nhất của lich sử, định nghĩa
lời cầu nguyện là ”sự diễn tả ước mong Thiên Chúa của con người”. Sự lôi kéo
tới với Thiên Chúa, mà chính Thiên Chúa đã đặt để trong con người, là linh hồn
của lời cầu nguyện. Nó mặc lấy biết bao nhiêu hình thái và phương cách theo
lịch sử, thời gian, thời điểm, ơn thánh và cả tội lỗi của người cầu nguyện nữa.
Lịch sử con người đã biết tới các hình thái cầu nguyện khác nhau, bởi vì nó đã
phát triển các phương thức khác nhau rộng mở cho Đấng Khác và cho Đấng Ơ Bên
Kia, đến độ cầu nguyện là kinh nghiệm hiện hữu trong mọi tôn giáo và mọi nền
văn hóa.
Thật thế, lời cầu nguyện không bị cột buộc vào một bối cảnh đăc
biệt nào, mà được khắc ghi trong trái tim của từng người và của từng nền văn
hóa. Nó là một thái độ nội tâm, trước khi là một chuỗi các thực hành và công
thức. Nó là một kiểu sống trước mặt Thiên Chúa, trước khi là việc chu toàn các
hành động phụng tự hay nói lên bằng lời. Lời cầu nguyện có trung tâm và đâm rễ
sâu trong nơi cùng thẳm nhất của con người, vì thế không dễ mà có thể đọc được
nó, và cũng vì thế nó có thể là lý do gậy ra các hiểu lầm và việc mầu nhiệm hóa
nó. Do đó kinh nhgiệm của lời cầu nguyện là một thách đố đối với tất cả mọi
người, một ơn cần phải khẩn nài, một ơn của Đấng mà chúng ta hướng tới.
Đức Thánh Cha nói thêm trong bai huấn dụ: Trong lời cầu nguyện
trong mọi thời đại lịch sử, con người tự nhìn mình và tình trạng của mình trước
mặt Thiên Chúa. Từ Thiên Chúa và trong trật tự đối với Thiên Chúa nó kinh
nghiệm được mình là thụ tạo, cần được trợ giúp, không có khả năng tìm ra cho
mình việc hoàn thành cuộc sống và niềm hy vọng của chính mình. Trong tương quan
đó với Thiên Chúa, là Đấng trao ban ý nghĩa cho cuộc sống, lời cầu nguyện có một
trong các diễn tả đặc thù của nó là qùy gối xuống. Người ta qùy gối vì bị bắt
buộc bởi điều kiện nghèo túng hay nô lệ của mình, nhưng người ta cũng có thể
qùy gối một cách tự phát, bằng cách tuyên bố sự hạn hẹp của mình, sự cần tới
một Đấng Khác. Và tôi tuyên bố với Người rằng tôi yếu đuối, tôi cần được trợ
giúp, tôi là kẻ tội lỗi. Trong minh nghiệm của lời cầu nguyện, con người thụ
tạo diễn tả tất cả ý thức về mình, tất cả những gì nó có thể tiếp nhận được từ
cuộc sống của nó; đồng thời nó hướng tất cả cuộc sống về Đấng, mà nó ở trước
mặt; và nó hướng linh hồn về Mầu Nhiệm, từ đó nó trông chờ sự thành toàn các
ước mong sâu thẳm nhất và sự trợ giúp để thắng vượt sự nghèo nàn nơi cuộc sống
của nó.
Đức Thánh Cha định nghĩa thêm lời cầu nguyện như sau: Lời cầu nguyện
là sự rộng mở và nâng lên cao của trái tim tới Thiên Chúa, như thế, trở thành
tương quan cá nhân với Ngài. Và cả khi con người có quên Đấng Tạo dựng ra nó đi
nữa, Thiên Chúa hằng sống và chân thật vẫn không ngừng đi trước kêu gọi con
người bước vào cuộc găp gỡ nhiệm mầu trong lời cầu nguyện. Như sách Giáo Lý
khẳng đinh: ”Bước chân tình yêu đó của Thiên Chúa tín trung luôn luôn tới trước
trong lời cầu nguyện; bước chân của con người luôn luôn là một lời đáp trả. Từ
từ Thiên Chúa tự mạc khải và mạc khải con người cho chính nó, lời cầu xuất hiện
như một lời gọi nhau, một biến cố của giao ước. Qua các lời nói và cử thỉ biến
cố đó khiến cho trái tim con người dấn thân đáp trả. Nó tự mạc khải trong suốt
lịch sử cứu độ” (s. 2567).
Chúng ta hãy tập dừng lại nhiều hơn trước mặt Thiên Chúa, Đấng đã
tự mạc khải nơi Đức Giêsu Kitô; chúng ta hãy học nhận ra trong sự thinh lặng,
và trong nơi thẳm sâu nhất của chính mình, tiếng nói của Đấng mời gọi chúng ta
và dẫn đưa chúng ta tới sự chiều sâu cuộc sống của chúng ta, tới suối nguồn của
sự sống, suối nguồn của ơn cứu độ, để làm cho chúng ta vượt thắng sự hạn hẹp
của cuộc sống và rộng mở chúng ta cho mực thước của Thiên Chúa, cho tương quan
với Đấng là Tình Yêu Vô Tận.
Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng các thứ tiếng Pháp, Anh, Đức,
Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ba Lan, Tchèques, Croat, Slovac, Ucraine, Lituani, và
Ý. Chào các bạn trẻ, các người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới ngài xin
mọi người siêng năng lần hạt Mân Côi kính Đức Mẹ trong tháng 5 để suy niệm các
mầu nhiệm cứu độ và nhận được nhiều ơn lành của Mẹ Thiên Chúa cho cuộc sống của
mình.
Sau cùng Đức Thánh Cha cất kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh
cho mọi người
Linh Tiến Khải