Sức mạnh của lời cầu nguyện cho ơn
cứu rỗi của tha nhân
radiovaticana 18/05/2011 18.30.31 – Sức mạnh của lời cầu nguyện
cho ơn sứu rỗi của người khác biểu lộ và diễn tả ước muốn của Thiên Chúa đối
với kẻ tội lỗi: đó là tha thứ, cứu rỗi, trao ban sự sống và biến sự dữ thành sự
lành.
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khẳng định như trên trước gần 30.000
tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung tại quảng
trường thánh Phêrô sáng thứ tư 18-5-2011.
Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Anh chị em thân mến, trong
các bài giáo lý trước đây chúng ta đã suy tư về lời cầu nguyện như là một hiên
tượng phổ quát hiện diện trong các nền văn hóa của mọi thời đại, dưới nhiều
hình thức khác nhau. Hôm nay, tôi muốn bắt đầu một lộ trình kinh thánh về đề
tài này. Nó sẽ hướng dẫn chúng ta đào sâu cuộc đối thoại của giao ước giữa
Thiên Chúa và con người, và nó linh hoạt lịch sử cứu độ cho tới tột đỉnh, cho
tới Lời định đoạt là Đức Giêsu Kitô. Lộ trình này sẽ dẫn chúng ta dừng lại trên
vài văn bản quan trọng và các gương mặt mô thức của Cựu Ước và Tân Ước. Tổ phụ
Abraham, cha của tất cả mọi người có lòng tin, sẽ là người đầu tiên cống hiến
cho chúng ta thí dụ đầu tiên về lời cầu nguyện, trong giai thoại ông can thiệp
cho dân hai thành Sodoma và Gomorra. Tôi cũng mời gọi anh chị em tập hiểu biết
Thánh Kinh nhiều hơn, trong gia đình có sách Thánh Kinh, đọc và suy niệm Thánh Kinh
trong tuần để hiểu biết lịch sử tuyệt vời tương quan giữa Thiên Chúa và con
người.
Văn bản đầu tiên là chương 18 sách Sáng Thế kể lại tình trạng sống
gian ác và tội lỗi của dân chúng hai thành Sodoma và Gomorra, đến độ Thiên Chúa
phải can thiệp bằng cách quyết định đánh phạt họ. Nhưng Thiên Chúa cũng quyết
định vén mở cho ông Abraham biết điều đó, cho ông biết sự nghiêm trọng của sự
dữ và các hậu qủa kinh khủng của nó, bởi vì ông là người đã được Thiên Chúa
tuyển chọn để trở thành phước lành cho toàn thế giới. Sứ mệnh của ông như thế
là sứ mệnh cứu vớt, qua ông, Thiên Chúa muốn đem nhân lại trở về với đức tin,
sự vâng phục và công lý.
Tổ phụ Abraham đặt vấn đề nghiêm trọng ngay với Thiên Chúa và thưa
với Người: “Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao? Giả như
trong thành có 50 người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao? Chẳng lẽ
Ngài không tha thứ cho thành đó, vì 50 người lành trong đó sao? Ngài làm như
vậy chắc không được đâu. Giết chết người lành một trật với kẻ dữ, coi người lành
cũng như kẻ dữ, chắc không được đâu! Đấng xét xử cả trần gian lại không xét xử
công minh sao?” (St 18,23-25). Qua các lời đó, với lòng can đảm lớn tổ phụ
Abraham đã đặt Thiên Chúa trước sự cần thiết phải tránh một thứ công lý tóm
tắt: Nếu thành phố có tội, thì đánh phạt tội lỗi của họ là điều chính đáng,
nhưng Thiên Chúa là thẩm phán công minh không thể đánh phạt người vô tội với kẻ
có tội được.
Tuy nhiên, nếu đọc kỹ văn bản, chúng ta sẽ thấy rằng lời xin của tổ
phụ Abraham sâu sắc hơn, vì ông không chỉ xin ơn cứu rỗi cho người vô tội mà
còn xin ơn tha thứ cho toàn thành phố nữa. Nghĩa là ông đưa ra một tư tưởng mới
về công lý không chỉ đánh phạt người có tội như loài người thường làm, mà là
một công lý khác, công lý của Thiên Chúa tìm kiếm sự thiện và tạo ra sự thiện
qua ơn tha thứ biến đổi người tội lỗi, hoán cải họ và cứu vớt họ. Đức Thánh Cha
khai triển lời cầu nguyện của tổ phụ Abraham như sau:
Như thế, với lời cầu của mình tổ phụ Abraham không khẩn cầu một sự
công chính hoàn toàn có tính cách thưởng phạt, nhưng một sự can thiệp cứu độ
chú ý tới những người vô tội, kể cả người gian ác được tự do khỏi tội lỗi bằng
cách tha thứ cho họ. Có thể tóm tắt tư tưởng của tổ phụ như sau: không thể đối
xử với người vô tội như kẻ có tội, vì như thế là bất công; trái lại cần phải
đối xử với kẻ có tội như người vô tội, và đưa ra một sự công chính “cao hơn”,
bằng cách cống hiến cho họ một khả thể được cứu rỗi, bởi vì nếu kẻ phạm tội
chấp nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa và thú nhận tội lỗi bằng cách để cho mình
được cứu rỗi, họ sẽ không tiếp tục làm sự dữ nữa, và cũng sẽ trở thành công
chính, mà không cần phải bị đánh phạt.
Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: đó là lời xin công lý mà
Abraham diễn tả trong lời bầu cử của ông. Ông không xin Thiên Chúa một điều
trái nghịch với bản thể của Người, nhưng gõ cửa con tim của Thiên Chúa vì biết
rõ ý muốn của Người. Chắc chắn 50 người công chính đối với một thành phố lớn
như Sodoma xem ra ít ỏi, nhưng sự công chính của Thiên Chúa và sự tha thứ của
Người lại không phải là sự biểu lộ sức mạnh của sự thiện hay sao, cả khi xem ra
nó bé nhỏ và yếu đuối hơn sự dữ? Sự tàn phá Sodoma phải chặn đứng sự dữ hiện
diện trong thành phố, nhưng Abraham biết Thiên Chúa có các phương cách khác để
ngăn chặn sự dữ lan tràn. Đó là sự tha thứ bẻ gẫy vòng xoáy của tội lỗi, và
trong khi nói chuyện với Thiên Chúa ông nại vào điều đó. Nhưng khi không tìm
thấy 50 người, tổ phụ Abraham giảm xuống 40, 30, 20 và 10 người công chính. Và
con số càng nhỏ, thì lòng xót thương của Thiên Chúa lại càng lớn lao hơn, vì
Người là Đấng kiên nhẫn lắng nghe lời cầu nguyện, chấp nhận nó và lập lại sau
mỗi lần khẩn nài của ông : “Ta sẽ tha thứ... Ta sẽ không phá hủy... Ta sẽ không
làm” (cc. 26.28.29.30.31.32).
Như vậy, nhờ lời bầu cử của Abraham thành Sodoma sẽ có thể được cứu
rỗi, nếu có ít nhất 10 người vô tội. Đó là sức mạnh của lời cầu nguyện. Bởi vì
qua lời bầu cử, lời cẩu nguyện dâng lên Thiên Chúa cho ơn cứu rỗi của những
người khác, ước mong cứu rỗi mà Thiên Chúa luôn nuôi dưỡng đối với người tội
lỗi, được biểu lộ và diễn tả ra. Thật thế, không thể chấp nhận sự dữ, phải ghi
nhận và phá hủy nó qua sự đánh phạt. Nhưng Thiên Chúa không muốn cái chết của
người gian ác, nhưng muốn họ hoán cải và được sống (x. Ed 18,23; 33,11). Ước
muốn của Người là luôn luôn tha thứ, cứu rỗi, trao ban sự sống và biến đổi sự
dữ thành sự lành... Với lời khẩn cầu của mình, tổ phụ Abraham cho ý muốn của
Thiên Chúa mượn tiếng nói và con tim của ông: ước muốn của Thiên Chúa là sự xót
thương, tình yêu và ý mốn cứu rỗi; và nó đã tìm thấy nơi Abraham và trong lời
cầu nguyện của ông khả thể biểu lộ ra một cách cụ thể bên trong lịch sử loài
người, để hiện hữu tại những nơi cần được ơn thánh... Cuộc đối thoại của Thiên
Chúa với Abraham là một biểu lộ tình yêu thương xót của thiên Chúa, được nối
dài và không thể lầm lẫn được.
Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ: Tai sao Abraham lại dừng
lại ở con số 10 người công chính để cứu toàn thành phố, chúng ta không biết
được; nhưng ngày nay số 10 là số cần thiết cho lời cầu nguyện công khai của tín
hữu do thái.
Đề cập tới ý muốn cứu rỗi của Thiên Chúa Đức Thánh Cha nói: Thiên
Chúa đã sẵn sàng tha thứ, Người ước mong làm điều đó, nhưng các thành phố khép
kín trong một sự dữ toàn diện và làm tê liệt, cả đến không có được ít người vô
tội để từ đó có thể biến đổi sự dữ thành sự thiện. Vì đó chính là con đường cứu
rỗi,mà cả tổ phụ Abraham cũng xin: được cứu rỗi không chỉ đơn thuần có nghĩa là
thoát khỏi sự đánh phạt, mà là được giải thoát khỏi sự dữ sống trong chúng ta.
Không phải loại bỏ sự trừng phạt, nhưng là loại bỏ tội lỗi, loại bỏ sự khước từ
Thiên Chúa và tình yêu, là cái đã mang trong chính nó sự trừng phạt. Chính ngôn
sứ Giêremia đã nói lên điếu đó: “Sự gian ác của ngươi phải sửa tri ngươi, hành
vi phản bội của ngươi sẽ trừng phạt ngươi. Ngươi phải biết, ngươi phải thấy
rằng: Lìa bỏ Giavê Thiên Chúa của ngươi, không còn kính sợ Người, thì thật là
xấu xa và cay đắng” (Gr 2,19). Thiên Chúa muốn cứu con người bằng cách giải
thoát nó khỏi sự buồn sầu, cay đắng, khỏi tội lỗi. Nhưng cần phải có sư biến
đổi nội tâm, một chút sự thiện từ đó có thể bắt đầu thay đổi sự dữ thành sự
thiện, thù hận thành tình yêu, báo oán thành tha thứ. Vì thế các người công
chính phải ở trong thành phố. Do đó Abraham lậ đi lập lại “Có lẽ ở đó sẽ tìm
thấy...” Ở đó, ở trong thực tại đau yếu phải có một vài mầm giống của sự thiện
có thể tái trao ban sự sống. Đây cũng là lời hướng tới chúng ta: ước chi trong
các thành phố của chúng ta có mầm giống sự thiện, ước chi chúng ta làm tất cả
những gì có thể để không phải chỉ có 10 người công chính để làm cho các thành
phố của chúng ta sống còn và cứu thoát chúng ta khỏi nỗi cay đắng nội tâm là sự
vắng bóng Thiên Chúa. Nhưng lòng xót thương của Thiên Chúa còn đi xa hơn nữa
trong lịch sử dân Người, như ngôn sứ Giêrema sẽ nói: chỉ cần một người công
chính thôi cũng đủ để được Thiên Chúa cứu: “Hãy rảo quanh đường phố Giêrusalem
mà xem cho biết. Trên các quảng trường thành phố ấy, hãy tìm xem có gặp được
một người, một người biết thi hành luật pháp, biết sống cho chân thật, Ta sẽ
dung tha cho cả thành” (Ge 5,1)...
Sẽ cần chính Thiên Chúa trở thành người công chính ấy. Đó là mầu
nhiệm nhập thể: để bảo đám một người công chính, chính Con Thiên Chúa đã làm
người, Đấng Công Chính định đoạt, Đấng hoàn toàn Vô Tội sẽ đem lại ơn cứu rỗi
cho toàn thế giới bằng cách chết trên thập giá, tha thứ và cầu bầu cho những
người “không biết việc họ làm” (Lc 23,34).... Lời cầu nguyện của tổ phu Abrham
dậy cho chúng ta biết luôn rộng mở con tim cho lòng thương xót tràn đầy của
Thiên Chúa, để trong lời cầu nguyện hàng ngày chúng ta biết ước mong ơn cứu rỗi
của nhân loại và kiên trì cầu xin với lòng tín thác nơi Chúa, là Đấng cao cả
trong tình yêu.
Sau khi chào các tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau Đức Thánh
cất kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.
Linh Tiến Khải