Đánh mất niềm tin: thách đố lớn của các Giáo Hội Kitô tại Cộng
Hòa Liên Bang Đức
Radiovaticana 20/09/2011 16.11.02 – Trong các ngày 22-25
tháng 9 này lần đầu tiên Đức Thánh Cha Biển Đức XVI sẽ chính thức viếng thăm
Cộng Hòa Liên Bang Đức. Thật ra Đức Giáo Hoàng đã viếng thăm nước Đức hai lần,
nhưng chuyến viếng thăm tại Koeln năm 2005 nhân Ngày Quốc Tế Giới Trẻ chỉ có
tính cách mục vụ, và chuyến viếng thăm thứ hai năm 2006 tại vùng Bavière là
chuyến viếng thăm tư. Trong chuyến công du lần này Đức Thánh Cha sẽ thăm các
giáo phận
Xã hội Liên Bang Đức, mà Đức Joseph Ratzinger sẽ tìm thấy
trong chuyến viếng thăm, được ông Andreas Puettman, miêu tả như một xã hội càng
ngày càng đánh mất đi đức tin kitô của mình. Thật ra đây là thảm cảnh chung của
các quốc gia tây âu có nền văn minh kitô, chứ không riêng gì của Cộng Hòa Liên
Bang Đức. Trong nhiều thập niên qua các kitô hữu tây âu ngày càng xa rời đức
tin. Không những họ không thực hành đạo, mà còn công khai chối bỏ gốc rễ kitô
của mình. Nhân danh chủ nghĩa duy đời cực đoan và lấy cớ tôn trọng tự do tôn giáo
của các chủng tộc khác - ở đây thường là thiểu số tín hữu Hồi giáo - một số
chính quyền tây âu đã ra lệnh loại bỏ mọi dấu chỉ bề ngoài của Kitô giáo, như
tháo gỡ các thánh giá khỏi các nơi công cộng.
Cũng có chính quyền còn cấm cả việc đeo ảnh đạo nữa. Điển
hình là vụ một nữ chiêu đãi viên hàng không Anh quốc đã mất việc làm vì nhất
định không tuân lệnh của ban giám đốc và vẫn tiếp tục đeo thánh giá ở cổ. Trào
lưu chối bỏ các biểu tượng của Kitô giáo đã bắt đầu từ nhiều thập niên qua:
hình Chúa Hài Đồng biến khỏi các tấm thiệp chúc mừng Giáng Sinh, hang đá máng
cỏ bị loại bỏ, hình Chúa Kitô phục sinh khải hoàn cũng không còn thấy trên các
thiệp phục sinh nữa. Thay vào đó là một số hoa hòe, cảnh trí hay các trái trứng
được vẽ nhiều mầu lòe koẹt vv... Và tại Anh quốc từ nhiều năm qua ban giám đốc
các hãng xưởng và các bàn giấy còn khuyến cáo nhân viên không được trang hoàng
cả cây thông Giáng Sinh nữa, lấy có là nó xúc phạm đến tự do tôn giáo của tín
hữu các tôn giáo khác.
Và tình hình chối bỏ Kitô giáo trở thành tệ hại tới độ hiện
nay Kitô giáo bị sách nhiễu và kỳ thị công khai ngay trong các xã hội tây âu có
nguồn gốc kitô. Bên cạnh chiến dịch loại trừ Kitô giáo khỏi cuộc sống xã hội,
nhiều chính khách và trào lưu duy đời cực đoan còn công khai tấn kích bôi nhọ
Giáo Hội, sỉ vả giới lãnh đạo và bịt miệng không muốn cho Giáo Hội lên tiếng về
các vấn đề luân lý phẩm giá và các quyền con người.
Trong cuốn sách tựa đề “Xã hội không có Thiên Chúa. Các
nguy cơ và hiệu qủa phụ của việc đánh mất đi các giá trị kitô của Đức” ông Andreas
Puettman viết: “Khuynh hướng tôn giáo tính của nước Đức trong một thời gian
dài cho thấy một sự suy sụp, phải gọi là một sự sụp đổ có chiều kích thời đại,
mặc dù có các cố gắng tái lượng định nó”. Cuốn sách và các nhận xét của ông hiện
đang gây ra tranh luận sôi nổi tại Đức. Nhưng tồi tệ nhất lá thái độ thờ ơ với
tôn giáo và các giá trị linh thiêng siêu việt.
Andreas Puettman sinh năm 1964. Trong các năm 1983-1990 ông
học Khoa học chính trị, Lịch sử và Luật quốc gia tại đại học
Cuốn sách nói trên của ông là một khảo luận chụp lại tình
hình Kitô giáo tại Liên Bang Đức hiện nay. Ngoài các trình bầy thuận tiện hay
có tính cách an ủi, ông đặt để các vị lãnh đạo tin lành và công giáo trước thực
tại suy sụp này của Kitô giáo, và mời gọi những người tin cũng như không tin
suy tư về các hậu qủa của sự thay đổi mô thức triệt để đang hiện diện khắp nơi
trong cuộc sống, và chúng gây ra âu lo vì không thể nào thấy trước được các hậu
qủa của chúng trong tương lai.
Dĩ nhiên, các dữ kiện và các số thống kê trần trụi không
phải là tất cả, nhưng chúng có sức mạnh và ý nghĩa riêng của chúng. Chẳng hạn
như trước kia tại các bang cựu Đông Đức cùng với Lettonia và Cộng Hòa Tchèques,
là các vùng đất có sỉ số vô thần cao nhất, thì hiện nay, theo lượng định của
Liên Hiệp Âu châu, nói chung, lòng đạo hạnh của người dân Đức ở dưới mức trung
bình của Âu châu, vì chỉ có 47% dân khẳng định mình tin nơi Thiên Chúa. Từ năm
1950 cho tới nay số tín hữu tin lành Đức giảm từ 43 xuống còn 25 triệu, nghĩa
là gần phân nửa trong vòng hai thế hệ, và kể từ năm 1970 tới nay Giáo Hội tin lành
đã mất đi 6,6 triệu tín hữu. Trong khi Giáo Hội công giáo trong thập niên 1970
có 25 triệu tín hữu và ngày nay cũng có số tín hữu tương tự, nghĩa là không
tiến triển tí nào. Nhưng trong các thập niên qua Giáo Hội công giáo đã mất đi
sức lớn mạnh nhờ hiện tượng di cư và dân số gia tăng. Từ năm 1989 tới nay Giáo
Hội công giáo đã mất đi 2,2 triệu tín hữu, tương đương với số tín hữu toàn tổng
giáo phận Koeln. Và mỗi năm tổng giáo phận Koeln mất 0,6% tín hữu.
Liên quan tới việc tham dự thánh lễ Chúa Nhật, hồi năm 1950
có phân nửa tổng số 25 triệu tín hữu trung thành tham dự thánh lễ Chúa Nhật.
Nhưng theo một cuộc thăm dò do học viện Allensbach thực hiện hồi tháng giêng
năm 2009 chỉ có 8% tín hữu công giáo Tây Đức và 17% tín hữu công giáo Đông Đức
tuyên bố là tham dự thánh lễ đều đặn mỗi ngày Chúa Nhật. Tuổi trung bình của
những người tham dự thánh lễ Chúa Nhật cũng không lấy gì làm khích lệ: trong cả
hai Giáo Hội tin lành cũng như công giáo những người đi lễ Chúa Nhật đều trên
60 tuổi.
Vẫn theo kết qủa một cuộc thăm dò mới đây của Học viện
Allensbach, chỉ có 15% người dân Đức dưới 30 tuổi, tức là giới cha mẹ trong
tiềm năng của thế hệ mới, coi việc giáo dục tôn giáo là quan trọng đối với con
cái họ.
Niềm tin kitô của người dân Đức lại còn giảm sút hơn nữa,
nếu duyệt xét mức độ tin vào các sự thật đức tin của họ. Chỉ có 58,7% tín hữu
công giáo và 47,7% tín hữu tin lành tin rằng Thiên Chúa đã dựng nên trái đất.
Và số tín hữu tin vào sự thụ thai đồng trinh của Đức Maria hay tin vào sự phục
sinh lại còn ít hơn nữa. Chỉ có 38% dân Đức còn tin Giáng Sinh là một ngày lễ
tôn giáo. Theo đúc kết của nhà xã hội học Thomas Gesincke, “đối với nhiều
người, Kitô giáo đã hoàn toàn trở thành một bối cảnh văn hóa để đan dệt một tôn
giáo riêng của mình”, hay như lời Đức Hồng Y Degenhardt, Tổng Giám Mục giáo
phận Paderborn, kiêm Chủ tịch Hội Đồng Giám Muc Đức, tuyên bố trước Hội Đồng
Giám Mục Đức hồi năm 1988: “Kitô giáo đã trở thành một quang cảnh chung bên
trong Giáo Hội Đức, là quang cảnh của một đám đông “người ngoại giáo được rửa
tội”.
Ông Puettman đã dành ra hàng chục trang trong sách để miêu
tả tình trạng nghèo nàn tinh thần này của Kitô giáo Đức. Tiếng báo động của ông
tuy là một sự đơn giản hóa khắc nghiệt, nhưng liêm chính, mà chính Đức Thánh
Cha Biển Đức XVI cũng đã nhiều lần gióng lên. Trong thư đề cập tới việc giải vạ
tuyệt thông cho bốn Giám Mục theo nhóm Lefèvre thủ cựu, Đức Thánh Cha Biển Đức
XVI đã viết: “Tại nhiều vùng rộng lớn của trái đất, đức tin đang găp nguy cơ
tắt ngấm đi như một ngọn lửa không tìm ra chất đốt nữa”. Và ông Puettman lợi
dụng lúc cuộc thảo luận về khuynh hướng đa văn hóa đang lôi kéo sự chú ý tại
Đức để làm cho mọi người hiểu rằng tâm tình bài hồi giáo tự nó có thể làm cho
dư luận hướng dẫn người dân thường xích lại gần các gốc rễ kitô đã bị quên lãng
hơn. Và đó là điều còn cần phải chờ xem xảy ra như thế nào.
Ngày nay, các lực lượng của sự tục hóa tấn kích hồi giáo
cũng bởi vì đó là thực tại còn lại, giống như bức tường đối đầu và ngăn chặn
các lực lượng tục hóa lan tràn. Thế giới tin lành thì uể oải trong cái khô cằn
của mình và được nịnh hót bởi tư tưởng thống trị cho rằng tin lành được coi như
đồng nghĩa với nền văn minh “đời và tự do”. Trong khi đối với thế giới công
giáo thì tùy theo từng trường hợp: nó được kính trọng, khi dám bóc nhãn hiệu, lên
tiếng công khai chống lại khuynh hướng duy tương đối luân lý thống trị, nhưng
khi khác nó lại bị coi như đối thủ, cần phải kiểm soát và bẻ gẫy giống như xảy
ra với Hồi giáo.
Như thế, theo giáo sư Puettman tình hình Giáo Hội tin lành
Đức rất là tồi tệ. Các tín hữu công giáo thì ngưng tụ không tiến triển. Vậy
phải đưa ra các biện pháp chống lại tình trạng tiêu cực này như thế nào đây?
Chắc chắn không phải là giương cao lá cờ của khuynh hướng duy đời, mà là sống
theo tinh thần nghiêm khắc của Đức Giáo Hoàng.
Từ phía các giới truyền thông thì dấu chỉ của tình trạng
này là triều đại của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI. Hồi năm 2005 với cái chết của
Đức Gioan Phaolô II, việc bầu lên một vị Giáo Hoàng người Đức và chuyến viếng
thăm của người tại Đức đã dấy lên một cơn sóng công giáo có ba mặt, tạo ra cảm
tưởng của một sự hồi sinh tôn giáo. Nhưng vì chương trình của Đức Biển Đức XVI
không phải là làm cho mình được qúy mến hay được vỗ tay tán thưởng, mà là loan
báo sứ điệp của Chúa, nên tuần trăng mật đã không kéo dài. Ông Puettman cho
rằng có vấn đề và cũng có một cơ may. Ông là người có can đảm nhìn vào sự thật
và nói lên sự thật, mặc dù vì thế có thể ông không được dân chúng ưa thích hay
bị họ khinh bỉ. Ông nhắc tới chìa khóa của một cuộc trở lại không giả tạo của Thiên
Chúa. Và theo ông chương tổng kết đã được Hội Đồng Giáo Hội Kitô tin lành đưa
ra trong hội nghị nhóm tại Stockholm hồi năm 1945: đó là “Loan báo Lời Chúa với
nhiều can đảm hơn, cầu nguyện với nhiều tin tưởng hơn, tin với nhiều tươi vui
hơn, và yêu thương với nhiều đam mê hơn”. Đó là các điểm có thể giúp tái trao
ban sức sống tinh thần cho Kitô giáo. Vì thế các kitô hữu phải thắng vượt sự
nhút nhát của mình, thắng vượt sự ươn lười của mình, và thắng vượt tình trạng
thiếu chuyên môn liên quan tới đức tin mà họ tuyên xưng.
(Avvenire 14-9-2011)
Linh Tiến Khải