Thánh lễ kết thúc
Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới lần thứ XIII
Radiovaticana 2012-10-28
18:07:10 – Lúc 9 giờ rưỡi sáng Chúa Nhật hôm qua Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
đã chủ sự thánh lễ trong đền thờ thánh Phêrô kết thúc Thượng Hội Đồng Giám Mục
lần thứ XIII. Cùng đồng tế với Đức Thánh Cha có hàng chục Hồng Y và các Tổng
Giám Mục và Giám Mục nghị phụ, trong đó có Đức Cha Nguyễn Năng, Giám Mục Phát
Diệm, và Đức Cha Vũ Duy Thống, Giám Mục Phan Thiết. Tham dự thánh lễ có khoảng
10.000 tín hữu và du khách hành hương.
Giảng trong thánh lễ Đức Thánh Cha đã khai triển ý nghĩa
phép lạ Chúa Giêsu cho người mù thành Giêricô được sáng mắt, lồng khung trong
đề tài tái truyền giảng Tin Mừng, đã được các nghị phụ thảo luận trong Thượng
Hồi Đồng Giám Mục.
Phép lạ chữa anh mù Bartimeo có thế đứng quan trọng trong
cấu trúc Phúc Âm thánh Marcô. Nó được đặt ở cuối phần gọi là “chuyến lên
Giêrusalem”, nghĩa là cuộc hành hương cuối cùng của Chúa Giêsu về Thành Thánh,
để tham dự lễ Vượt Qua, trong đó cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh chờ đợi
Người.
Để lên Giêrusalem từ thung ]ũng Giọcđan Chúa Giêsu đi ngang
qua thành Giêricô, và cuộc gặp gỡ với anh mù xảy ra, khi Người ra khỏi thánh
phố. Tất cả Phúc Âm thánh Marcô là một lộ trình đưc tin, được khai triển từ từ
theo trường học của Chúa Giêsu. Các môn đệ là các tác nhân đầu tiên của lộ
trình khám phá đó, nhưng cũng có những người khác có vai trò đáng kể, trong đó
có cả anh mù Bartimeo nữa. Phép lạ chữa anh là phép lạ cuối cùng Chúa Giêsu làm
trước khi bước vào cuộc khổ nạn. Và không phải tình cờ việc chữa lành một người
có đôi mắt đã mất đi ánh sáng.
Đức Thánh Cha nêu bật ý nghĩa biểu tượng của anh mù
Bartimeo như sau:
Anh diễn tả người cần ánh sáng của Thiên Chúa, ánh sáng của
đức tin, để thực sự hiểu biết thực tại và bước đi trên con đường cuộc sống.
Điều nòng cốt là nhận biết mình mù lòa, cần đến ánh sáng ấy, nếu không ta sẽ mù
luôn mãi (x. Ga 9,39-41).
Anh ta đã không mù từ lúc mới sinh, nhưng đã mất đi khả
năng nhìn thấy. Anh là người đã mất đi ánh sáng và ý thực được điều đó, nhưng
đã không mất niềm hy vọng. Anh biết tiếp nhận khả thể gặp Chúa Giêsu và tin
tưởng nơi Người để được chữa lành. Thật thế, khi nghe biết Chúa Giêsu đi ngang
qua trên đường, anh kêu lên: “Lậy Đức Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót
tôi!” và anh lập lại lời kêu xin mạnh hơn. Và khi Chúa Giêsu gọi anh lại và hỏi
anh muốn gì nơi Người, anh thưa: “Lậy Thầy, xin cho tôi lại thấy”. Bartimeo
diễn tả người nhận biết bệnh tật của mình và kêu lên Chúa, tin tưởng được chữa
lành. Lời kêu xin của anh đơn sơ, chân thành và gương mẫu, giống như lời kêu
xin của người thu thuế “Lậy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13),
lời cầu ấy đã đi vào trong truyền thống lời cầu kitô. Trong cuộc gặp gỡ với
Chúa Kitô, được sống với đức tin, anh mù Bartimeo có được trở lại ánh sáng đã
mất, và với nó là phẩm giá tràn đầy của mình: anh đứng dậy và đi trở lại con
đường, mà từ lúc đó có một người hướng dẫn là Đức Giêsu, và anh đi cùng một con
đường Đức Giêsu đi. Thánh sử không nói gì về Bartimeo nữa, nhưng nơi anh thánh
sử giới thiệu với chúng ta ai là người môn đệ: đó là người theo Chúa Giêsu trên
đường với ánh sáng đức tin.
Tiếp tục bài giảng Đức Thánh Cha nói thánh Agostino đã suy
tư và đưa ra một nhận xét rất đặc biệt về gương mặt của anh mù Bartimeo, nó
cũng có ý nghĩa đối với chúng ta ngày nay : đó là sự kiện thánh sử Marcô không
chỉ kể tên của người được sáng mắt mà cả tên của cha anh ta nữa, anh là
Bartimeo con của Timeo. Và thánh nhân kết luận rằng anh ta là một nhân vật đã
từ một cuộc sống rất phong phú rơi xuống sự bần cùng, và điều kiện bần cùng của
anh được mọi người biết tới: anh không chỉ mù lòa, mà còn là người ăn mày bên
vệ đường nữa.
Việc giải thích này mời gọi chúng ta suy tư về sự kiên có
các sự phong phú qúy báu,không phải là vật chất, mà chúng ta có thể mất. Đức
Thánh Cha giải thích điểm này như sau:
Trong viễn tượng này, anh mù Bartimeo có thể diễn tả những
người sống trong các vùng đất xưa kia đã được truyền giảng Tin Mừng, nơi ánh
sáng đức tin đã suy yếu đi, họ đã xa rời Thiên Chúa, và không coi Người quan
trọng đối với cuộc sống của họ nữa. Vì thế họ là những người đã mất đi một sự
giầu có lớn; họ đã rơi xuống từ một phẩm giá cao trọng, không phải phảm giá
kinh tế hay quyền lực trần gian, nhưng là phẩm giá kitô; họ đã mất đi định
hướng vững chắc của cuộc sống và đã trở thành những người ăn mày ý nghĩa cuộc
sống, thường khi một cách vô thức. Họ là biết bao nhiêu người cần được tái
truyền giảng Tin Mừng, nghĩa là cần có một cuộc gặp gỡ mới với Chúa Giêsu Kitô,
Con Thiên Chúa, là Đấng có thể tái mở đôi mắt cho họ và chỉ đường cho họ. Phúc
Âm mà phụng vụ hôm nay đề nghị có một ý nghĩa đặc biệt đối với chúng ta, những
người trong các ngày qua đã đương đầu với sự cấp thiết tái loan báo Chúa Kitô,
tại những nơi ánh sáng đức tin đã suy yếu, ở những nơi lửa của Thiên Chúa, như
lửa hỏa lò, cần được tái nhóm, để là lửa sinh động trao ban ánh sáng và hơi ấm
cho cả nhà.
Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đề cập tới ba khía cạnh của việc
tái truyến giảng Tin Mừng. Thứ nhất nó liên quan tới toàn cuộc sống Giáo Hội và
công tác mục vụ bình thường, cần được linh hoạt bởi lửa của Chúa Thánh Thần để
đốt cháy con tim tín hữu. Thượng Hội Đồng Giám Mục đã đề ra ba đường hướng mục
vụ. Thứ nhất cần phải đồng hành và chuẩn bị cho tín hữu lãnh nhận các bí tích
khai tâm là Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể. Bí tích sám Hối, bí tih của lòng
thương xót Chúa, cũng quan trọng. Lời Chúa mời gọi mọi kitô hữu nên thánh đi
qua lộ trình của các bí tích ấy.
Thứ hai việc tái truyền giảng Tin Mừng gắn liền với sứ mệnh
đến với dân ngoại. Giáo Hội có nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng loan báo Sứ điệp cứu
độ cho những ai chưa nhận biết Chúa Kitô. Có biềt bao nhiêu môi trường tại Á
châu, Phi chậu và Đại dương châu, trong đó dân chúng chờ đợi được loan báo Tin
Mừng. Vì thế cần phải cầu xin Chúa Thánh Thần để Người dấy lên trong Giáo Hội
năng động truyền giáo mới, với các tác nhân là các nhân viên mục vụ và giáo
dân. Việc loan báo Tin Mừng cũng cần thiết đối với các nước đã đươc truyền giáo
xưa kia. Tất cả mọi người đều có quyền hiểu biết Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng
của Người. Vì thế mọi kitô hữu linh mục, tu sĩ và giáo dân nam nữ đều có nhiệm
vụ loan báo Tin Mừng.
Điểm thứ ba liên quan tới các tín hữu đã lãnh bí tích Thánh
Tẩy, nhưng không sống các đòi buộc của nó, đặc biệt tại các nước bị tục hóa
nhất. Giáo Hội đặc biệt chú ý đến họ, để giúp họ tái gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô và
tái khám phá ra niềm vui của đức tin và thực hành đạo trở lại trong các cộng
đoàn. Ngoài các phương pháp truyền thống, Giáo Hội cũng tìm sử dụng các phương
pháp mới, với các ngôn ngữ mới thích hợp với các nền văn hóa khác nhau của thế
giới, trong việc đề nghị chân lý của Chúa Kitô, với thái độ đối thoại và tình
bạn bắt nguồn từ Thiên Chúa tình yêu, qua các đại hội như “Sân của dân ngoại”,
sứ mệnh truyền giáo đại lục vv...
Các ý nguyện lời nguyện tín hữu đã được đọc bằng các thứ
tiếng Ý, Ba Lan, Tây Ban Nha, Thụy Điển, A rập và Tchèques. Trong phần hiệp lễ
Đức Thánh Cha đã trao Mình Thánh Chúa cho một số tín hữu, trong khi 50 linh mục
đã cho tín hữu rước lễ.
Lúc 12 giờ Đức Thánh Cha đã ra cửa sổ phòng làm việc của
ngài để đọc kinh Truyền Tin chung với mấy chục ngàn tín hữu tụ tập tại quảng
trường Thánh Phêrô. Đức Thánh Cha đã bầy tỏ tình liên đới với các nạn nhân của
trận bão lớn càn quét các nước
Trước đó, trong bài huấn dụ ngắn Đức Thánh Cha đã cảm tạ
Chúa đã cho mọi người sống kinh nghiệm vẻ đẹp là Giáo Hội giữa thế giới này với
các mệt nhọc và hy vọng của nó. Ngài đã tóm tắt thành qủa của Thượng Hội Đồng
Giám Muc như sau:
Ngay từ bây gìơ chúng ta có thể nói rằng từ Thượng Hội Đồng
Giám Mục này nảy sinh ra dấn thân canh tân tinh thần trong chính Giáo Hội, để
có thể canh tân tinh thần thế giới bị tục hóa. Và việc canh tân này sẽ bắt
nguồn từ việc tái khám phá ra Chúa Giêsu Kitô, từ sự thật, ơn thánh và gương
mặt là Người và là Thiên Chúa của Người, trên đó rạng ngời mầu nhiệm siêu việt
của Thiện Chúa.
Đức Thánh Cha nói: trong ba tuần các nghị phụ đã đương dầu
với việc tái truyền giảng Tin Mừng. Toàn thể Giáo Hội đã hiện diện và bị lôi
cuốn vào dấn thân này. Thượng Hội Đồng Giám Mục là thời điểm mạnh mẽ của sự
hiệp nhất giáo hội. Nó càng ý nghĩa hơn nhân dịp kỷ niệm 50 năm khai mở Công
Đồng Chung Vaticăng II và bắt đầu Năm Đức Tin. Đức Gioan XXIII và Đức Phaolô VI
đã giúp chúng ta hiểu rằng việc tái truyền giảng Tin Mừng là năng động phát
triển trong Giáo Hội, đặc biệt từ thập niên 1950 khi các nước cựu kitô trở
thành “vùng truyền giáo”... Chúng ta hãy phó thác cho Đức Trinh Nữ Maria các
hoa trái công việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục vừa mới kết thúc. Xin Mẹ là
Ngôi Sao của việc tái truyền giảng Tin Mừng dậy đỗ và giúp chúng ta can đảm và
tươi vui đem Chúa Kitô tới với tất cả mọi người.
Sau cùng Đức Thánh Cha đã cất kinh Truyền Tin và ban phép
lành tòa thánh cho mọi người.
Linh Tiển Khải