Tin là tưởng niệm hành động của Thiên Chúa
trong lịch sử nhân loại
Radiovaticana 2012-12-12 15:55:44 – Mùa Vọng mời gọi chúng ta đi lại con đường sự hiện diện của Thiên Chúa
trong dòng lịch sử nhân loại và luôn nhớ rằng Thiên Chúa không vắng bóng hay bỏ
rơi chúng ta; trái lại Người đến gặp gỡ chúng ta trong nhiều cách thế khác
nhau, mà chúng ta phải học biết phân định.
Kính thưa qúy vị, thưa
các bạn, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với 4.000 tín hữu và du
khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung trong đại thính đường Phaolô VI
sáng thứ tư hôm qua.
Trong bài huấn dụ Đức
Thánh Cha đã khai triển đề tài sự hiện diện và các can thiệp của Thiên Chúa
trong dòng lịch sử. Thiên Chúa đã tự mạc khải cho con người và sự mạc khải đó
được tháp nhập vào thời gian và trong lịch sử con người: lịch sử trở thành nơi
trong đó chúng ta có thể nhận ra hành động của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Thiên Chúa đến với chúng ta trong những gì thân thuộc nhất với chúng ta và dễ
kiểm thực, bởi vì nó làm thành bối cảnh thường ngày cúa chúng ta, mà nếu không
có nó chúng ta sẽ không thể hiểu chính mình (Gioan Phaolô II, Fides et ratio,
12).
Thánh sử Mạccô tóm tắt
các lúc đầu công cuộc rao giảng của Đức Giêsu bằng các từ rõ ràng như sau: “Thời
gian đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần” (Mc 1,15). Điều chiếu sáng và trao ban ý
nghĩa tràn đầy cho lịch sử thế giới và con người bắt đầu chiếu sáng trong hang
đá Bếtlêhem. Đức Thánh Cha giải thích như sau:
Nơi Đức Giêsu thành
Nadarét Thiên Chúa biểu lộ gương mặt của Người và xin con người quyết định thừa
nhận Người và theo Người. Việc tự mạc khải của Thiên Chúa trong lịch sử để bước
vào tương quan đối thoại yêu thương với con người trao ban một ý nghĩa mới cho
toàn lộ trình nhận loại. Lịch sử không chỉ là một tiếp nối các thế kỷ, năm
tháng và ngày, nhưng là thời gian của một sự hiện diện trao ban ý nghĩa và mở
nó ra cho một niềm hy vọng vững vàng.
Tiếp tục bài huấn dụ,
Đức Thánh Cha nói chúng ta có thể đọc được các giai đoạn của sự mạc khải ấy
trong Thánh Kinh, là nơi đặc tuyển giúp khám phá ra các biến cố của lộ trình
ấy. Và trong Năm Đức Tin này, một lần nữa tôi mời gọi tất cả mọi người hãy cầm
lấy sách Thánh Kinh thường xuyên hơn để đọc, suy niệm và chú ý hơn tới các bài
đọc Thánh lễ Chúa Nhật; tất cả những điều này là một lương thực qúy báu cho đức
tin.
Khi đọc Thánh Kinh Cựu
Ước, chúng ta có thể thấy rằng các can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử dân
Người đã chọn và ký kết giao ước không là những sự kiện đã qua và rơi vào quên
lãng, nhưng chúng trở thành “lịch sử thánh”, được duy trì sống động trong ký ức
của dân Israel qua việc cử hành các biến cố cứu độ. Trong sách Xuất Hành Thiên
Chúa chỉ cho ông Môchê cử hành lúc giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập, là lễ Vượt
Qua, với các lời này: “Các ngươi phải lấy ngày đó làm ngày tưởng niệm, các
ngươi sẽ cử hành như là lễ của Chúa, từ đời này sang đời kia các ngươi sẽ cử
hành nó như một nghi lễ muôn đời” (Xh 2,14). Đối với toàn đân Iarael nhớ lại
những gì Thiên Chúa đã làm trở thánh một loại lệnh truyền thường xuyên để cho
sự qua đi của thời gian được ghi dấu bởi ký ức sống động của các biến cố đã
qua. Trong sách Đệ Nhị Luật ông Môshê nói với dân: “Ngươi hãy coi chừng đừng
quên các điều mắt đã thấy và đừng để chúng vuột khỏi con tim trong suốt cuộc
đời: ngươi sẽ dậy cho con cái và cháu chắt ngươi” (Đnl 4,9). Đức tin được nuôi
dưỡng bởi việc khám phá và ký ức về Thiên Chúa, là Đấng luôn luôn trung thành,
là Đấng hướng dẫn lịch sử và làm thành nền tảng chắc chắn và ổn định cho cuộc
sống. Cả thánh thi Magnificat, mà Đức Maria dâng lên Thiên Chúa, cũng là một
thí dụ rất cao của lịch sử cứu độ. Mẹ Maria chúc tụng hành động của Thiên Chúa
trên lộ trình cụ thể của dân Người, sự trung thành với các lời hứa của giao ước
với tổ phụ Abraham và con cháu người. Và tất cả điều này là ký ức sống động về
sự hiện diện không suy giảm của Thiên Chúa (x. Lc 1,46-55).
Đối với Israel xuất
hành là biến cố lịch sử chính yếu, trong đó Thiên Chúa mạc khải hành động quyền
năng của Người. Thiên Chúa giải phóng người Israel khỏi nô lệ Ai Cập, để họ có
thể trở về Đất Hứa và thờ phượng Người như là Chúa thật duy nhất. Israel không
lên đường để là một dân tộc như các dân tộc khác, nhưng để phục vụ Thiên Chúa
trong phụng tự và trong cuộc sống và làm chứng cho Người giữa các dân tộc khác.
Và việc cử hành biến cố này khiến cho nó hiện diện và thời sự, bởi vì công
trình của Thiên Chúa không giảm sút. Người trung thành với chương trình giải
phóng và tiếp tục theo đuổi nó, để cho con người có thể nhận biết và phục vụ
Chúa mình và đáp trả lại hành động của Thiên Chúa với đức tin và tình yêu
thương. Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ:
Như thế Thiên Chúa mạc
khải chính mình không phải chỉ trong hành động nguyên thủy của việc tạo dựng,
nhưng bằng cách bước vào trong lịch sử của chúng ta, lịch sử của một dân tộc bé
nhỏ, không phải một dân đông nhất, cũng không phải mạnh nhất. Và Mạc Khải nay
của Thiên Chúa đạt tột đỉnh nơi Đức Giêsu Kitô: Thiên Chúa, Logos, Lời tạo dựng
ở nơi nguồn gốc của thế giới, đã nhập thể nơi Đức Giêsu và cho thấy gương mặt
thật của Thiên Chúa. Nơi Đức Giêsu mọi lời hứa được thành toàn, nơi Người lịch
sử của Thiên Chúa với nhân loại đạt tột đỉnh. Khi chúng ta đọc trình thuật hai
môn đệ trên đường về làng Emmaus do thánh Luca kể, chúng ta thấy nổi lên một
cách rõ ràng con người của Chúa Kitô soi sáng Cưu Ước và toàn lịch sử cứu độ,
và cho thấy chương trình hiệp nhất lớn lao của Cựu Ước và Tân Ước. Thật vậy Đức
Giêsu giải thích cho hai khách bộ hành lạc lõng và vỡ mộng hiểu Người là sự
thành toàn của mọi lời hứa: “Rồi bắt đầu từ ông Môshê và tất cả các ngôn sứ,
Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách
Thánh” (Lc 24,27). Thánh sử cũng ghi lại lời hai môn đệ kêu lên sau khi đã nhận
ra người bạn đường ấy là Chúa: “Dọc đường khi Người nói chuyên và giải thích
Thánh Kinh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” (Lc 24,32).
Giáo Lý Giáo Hội Công
Giáo tóm tắt các chặng sự Mạc khải của Thiên Chúa bằng cách cho thấy một cách
tổng quát sự phát triển của nó (x. cs 54-64). Ngay từ ban đầu Thiên Chúa đã mời
gọi con người bước vào sự hiệp thông thân tính với Người, và cả khi con người
vì bất tuân phục đã đánh mất đi tình bạn của Người, Thiên Chúa đã không bỏ rơi
con người cho quyến lực của cái chết, nhưng nhiều lần đã cống hiến cho con
người giao ước của Người (x. Sách lễ Roma, Lời nguyện Thánh thể IV). Sách Giáo
Lý duyệt lại lộ trình của Thiên Chúa với con người, từ giao ước với ông Noe sau
Lụt Hồng Thủy, cho tới việc mời gọi tổ phụ Abraham ra khỏi quê hương để làm cho
ông trở thành cha của đông đảo các dân tộc. Thiên Chúa thành lập Israel như dân
Người qua biến cố Xuất Hành, giao ước núi Sinai và ơn Lề Luật qua ông Môshê để
được nhận biết và phục vụ như Thiên Chúa duy nhất hằng sống và đích thật.
Với các ngôn sứ Thiên
Chúa hướng dẫn dân Người trong niềm hy vọng của ơn cứu rỗi, trong việc chờ đợi
một Giao Ước mới và vĩnh cửu được dành để cho tất cả mọi người, được hiện thực
nơi Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người, tột đỉnh của sự Mạc Khải và chương
trình lòng lành của Thiên Chúa.
Đó là chương trình cứu
độ duy nhất được hướng tới toàn thể nhân loại, được mạc khải từ từ và thực hiện
bởi quyền năng của Thiên Chúa. Đây là điều nền tảng đối với lộ trình đức tin.
Chúng ta đang ở trong Mùa Vọng chuẩn bị cho lễ Giáng Sinh. Từ “vọng” có nghĩa
là “đến”, “hiện diện” và xưa kia ám chỉ việc đến của một vì vua hay của hoàng đế
trong một tỉnh của đế quốc. Đối với chúng ta là các kitô hữu nó ám chỉ một thực
tại tuyệt vời và đảo lộn: Thiên Chúa đã vượt qua Trời của Người và cúi xuống
trên con người; Người đã ký kết giao ước với nó bằng cách bước vào trong lịch
sử của một dân tộc. Người là vua đã xuống trong tỉnh nghèo nàn này là trái đất
và đã ban tặng cho chúng ta sự sống của Người bằng cách nhận lấy thịt xác chúng
ta, bằng cách trở thành người như chúng ta. Mùa Vọng mời gọi chúng ta đi lại
con đường của sự hiện diện đó, và nó luôn nhắc lại cho chúng ta biết rằng Thiên
Chúa không tự ra khỏi thế giới, không vắng mặt, không để chúng ta một mình,
nhưng đến gặp gỡ chúng ta trong nhiều cách thế, mà chúng ta phải học biết phân
định. Cả chúng ta nữa, với đức tin đức cậy và đức mến chúng ta được mời gọi ý
thức và làm chứng mỗi ngày cho sự hiện diện này của Chúa, trong một thế giới
thường khi hời hợt và lo ra, và làm rạng ngời lên trong cuộc sống chúng ta ánh
sáng đã chiếu soi hang đá Bếtlêhem.
Đức Thánh Cha đã chào
tín hữu bằng các thứ tiếng: Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, A rập, Ba
Lan, Lituani và Ý. Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới
cưới, Đức Thánh Cha nhắc cho mọi người biết hôm qua là lễ Đức Mẹ Guadalupe, Bổn
Mạng Châu Mỹ và Ngôi Sao của việc truyền giáo mới. Ngài cầu chúc các bạn trẻ
học yêu mến và hy vọng trong trường của Mẹ Maria. Đức Thánh Cha xin Mẹ đồng
hành với các người đau yếu và củng cố họ trong khổ đau. Ngài khích lệ các cặp
vợ chồng mới cưới phó thác con đường hôn nhân của họ cho Thân Mẫu Chúa Giêsu.
Sau cùng Đức Thánh Cha
cất kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.
Linh Tiến Khải
Về Trang Mục Lục