Ngày thứ hai Đức Thánh Cha viếng thăm
Cuba
Radiovaticana 28/03/2012
19.10.23 – Đức Thánh Cha đến La Habana và chủ sự thánh lễ tai quảng trường Cách
Mạng thủ đô (
Thứ tư 28-3-2012 là
ngày cuối cùng trong chuyến Đức Thánh Cha Biển Đức XVI viếng thăm
Nhưng trước hết, xin
kính mời qúy vị và các bạn cùng chúng tôi theo dõi các sinh hoạt của Đức Thánh
Cha chiều thứ ba 27-3-2012. Sau khi kính viếng đền thánh Đức Bà Bác Ái Mỏ Đồng
ở Santiago de Cuba, Đức Thánh Cha đã đi xe ra phi trường quốc tế cách đó 32 cây
số để lấy máy bay đi thủ đô La Habana. Máy bay đã cất cánh lúc 10 giờ rưỡi sáng
và tới phi trường quốc tế José Martí của thủ đô La Habana sau một giờ rưỡi bay.
Đức Thánh Cha đã được
Đức Hồng Y Ortega y Alamino tiếp đón tận chân thang máy bay, và Đức Hồng Y giới
thiệu với Đức Thánh Cha các giới chức chính quyền địa phương. Hiện diện tại phi
trường có mấy trăm trẻ em và các ca đoàn hát chào mừng Đức Thánh Cha.
Thành phố La Habana do
ông Diego Velazquez thành lập năm 1514. Với biến cố người Tậy Ban Nha chinh
phục Mêhicô và Perù, La Habana trở thành hải cảng quan trọng nhất Mỹ châu, vì
có các tầu hàng chở bạc về Tây Ban Nha. Năm 1555 thành phố bị người Pháp đảo
Corse cướp phá, và năm 1762 bị người Anh chiếm đóng 11 tháng. Sau đó thành phố
được củng cố đứng hàng đầu bên Tân Thế Giới. Từ năm 1607 La Habana là thủ đô
của Cuba; và với gần 4 triệu dân cư, hiện nay nó là thành phố lớn nhất vùng
quần đảo Caraibi. La Habana cũng là trung tâm của ngành kỹ nghệ luyện kim, làm
thuốc xì gà, lọc dầu hỏa vv... và có các tầu đánh cá lớn. Thành phố bị ô nhiễm
trầm trọng, không có hệ thống thiêu hủy rác, thiếu nước trong lành, và phân nửa
nhà cửa rơi vào tình trạng rất tồi tệ, khiến hằng năm có 300 dinh thự bị sập.
Khu phố nổi tiếng nhất
là khu phố cổ có các nhà xây thời thuộc địa, và từ năm 1982 nó được tổ chức
UNESCO của Liên Hiệp Quốc cho vào danh sách gia tài của nhân loại. Tại đây có
các lâu đài El Moro và La Cabanha, các dinh thự kỷ niệm Cách Mạng, bao gồm cả
viện bảo tàng và đài tưởng niệm José Martí, cũng như các hàng quán và nơi sinh
hoạt đêm với nhạc phi châu cuba thuộc thập niêm 1950, Tòa thị chính và viện bảo
tàng Ernest Hemingway, nơi nhà văn Mỹ đã sống và sáng tác tiểu thuyết trong 20
năm.
Trong số các nhà thờ
nổi tiếng trong thủ đô La Habana có nhà thờ Đức Bà Mân Côi xây năm 1720; nhà
nguyện Templete xây năm 1828; nhà thờ và tu viện thánh Phanxicô thành Assisi
xây năm 1608, hiện biến thành phòng hòa nhạc và viện bảo tàng; nhà thờ và tu
viện thánh nữ Clara, nhưng từ năm 1920 không còn là tu viện nữa; nhà thờ giáo
xứ Chúa Thánh Thần xây năm 1640: đây là nhà thở cổ xưa nhất trong thủ đô; nhà
thờ và tu viện Đức Bà Mercede xây năm 1755; và nhà thờ thánh Thiên Thần Bản
Mệnh.
Tổng giáo phận San
Cristobal La Habana được thành lập năm 1787, rộng hơn 7.500 cây số vuông, có
gần 4 triệu dân trong đó có hơn 2 triệu 800 ngàn tín hữu công giáo, bao gồm 107
giáo xứ với 44 linh mục triều và 101 linh mục dòng, 135 tu huynh, 265 nữ tu, 15
đại chủng sinh và 24 Phó tế vinh viễn. Giáo Hội điều khiển 2 học viện giáo dục
và 6 cơ sở bác ái xã hội.
Từ phi trường quốc tế
La Habana Đức Thánh Cha đã đi xe về Tòa Sứ Thần Tòa Thánh, cách đó 18 cây để
dùng bữa trưa và nghỉ ngơi chốc lát trước khi đến viếng thăm xã giao Chủ tịch
Raul Castro tại Dinh Cách Mạng. Ban đầu dinh thự này là trụ sở của Tòa Án Tối
Cao và Tổng Biện Lý. Từ năm 1965 nó là trụ sở của Hội đồng nhà nước, với văn
phòng của Chủ tịch Nước, Hội đồng Bộ trưởng và Ủy ban trung ương đảng Cộng Sản
Cuba. Ngoài ra còn có một rạp hát, một phòng chiếu phim và một nhà thương.
Xe chở Đức Thánh Cha đã đến Dinh Cách Mạng lúc
17 giờ rưỡi chiều thứ ba. Chủ tịch Raul Castro đã ra tiếp đón Đức Thánh Cha và
cùng ngài lên lầu một, nơi có phòng tiếp tân. Chủ tịch Raul Modesto Castro Ruz
sinh năm 1931. Hồi còn trẻ ông đã tham gia nhiều cuộc biểu tình phản đối tổng
thống Fulgenzio Batista. Năm 1953 ông đã cùng anh là Fidel Castro tổ chức một
vụ tấn công vũ trang trại lính Moncada ở Santiago di Cuba. Có nhiều người chết
và hai anh em bị bắt và bị kết án tù. Sau khi được ân xá, ông Raul đã tham gia
cuộc chiến đấu giải phóng
Sau khi hai bên đã giới
thiệu các nhân vật của hai phái đoàn, Đức Thánh Cha và Chủ tich Castro đã hội
kiến riêng trong vòng 45 phút. Trong cuộc họp báo sau đó Cha Lombardi Giám đốc
phòng báo chí Tòa Thánh cho biết cuộc hội kiến đã diển ra trong bầu khí rất
thanh thản và thân tình. Tuy không ai biết chi tiết nội dung cuộc nói chuyện
nhưng cha Lombardi nói hai bên đã đề cập tới điều kiện sống hiện nay của nhân
dân
Theo sau cuộc đàm đạo
lâu với Chủ tịch Raul Castro, Đức Thánh Cha gặp gia đình ông, chụp hình lưu
niệm, rồi hai bên trao đổi qùa tặng.
Trong khi Đức Thánh Cha
đàm đạo với Chủ tịch Nước, Đức Hồng Y Bertone Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh cũng gặp
gỡ Phó chủ tịch Hội đồng Nhà Nước và Hội đồng bộ trưởng cùng với các cộng sự
viên.
Sau cuộc gặp gỡ Đức
Thánh Cha đã cùng Chủ tịch Raul Castro ra chào đại điện giới truyền thông ở bên
ngoài Dinh, rồi Đức Thánh Cha lên xe về Tòa Sứ Thần Tòa Thánh cách đó 4 cây số
đễ dùng bữa tối và qua đêm tại đây.
Trong cuộc họp báo ban
chiều cha Lombardi giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh cũng tiết lộ một chi tiết
liên quan tới thánh lễ riêng Đức Thánh Cha dâng trong nhà nguyện chủng viện
Santiago sáng thứ ba. Tham dự thánh lễ có khoảng 10 nữ tu Thứa Sai Bác ái của
Mẹ Terexa Calcutta, trong đó có nữ tu Teresa Kerketta người Ấn Độ. Như thói
quen của các nữ tu Thừa Sai Bác Ái khi khấn trọng các chị chọn một linh mục để
hằng ngày cầu nguyện cách riếng cho vị ấy. Cách đây 20 năm, khi vĩnh khấn chị
Kerketta cũng đã chọn cầu nguyện cho một linh mục; vị linh mục đó là Đức Hồng Y
Ratzinger. Sau thánh lễ Đức Tổng Giám Mục Santiago đã giới thiệu chị với Đức
Thánh Cha và chị đã choàng một vòng hoa lên cổ ngài để tỏ lòng qúy mến. Đức
Thánh Cha đã rất cảm động gặp người mỗi ngày đã liên lỉ cầu nguyện cho ngài
trong suốt 20 năm qua. Ngoài ra có một ca đoàn gồm 20 thiếu nhi đã hát mừng Đức
Thánh Cha và chụp hình lưu niệm với ngài khi Đức Thánh Cha rời chủng viện.
Lúc sau 8 giờ sáng thứ
tư 28-3-2012, Đức Thánh Cha đã đi xe bọc kính rời Tòa Sứ Thần đến quảng trường
Cách Mạng La Habana, cách đó 4 cây số để chủ sự thánh lễ cho tín hữu.
Quảng trường Cách Mạng
mang tên José Martín là nơi biểu tượng của Cuba, rất rộng có thể chứa tới
600.000 người, và là nơi đã diễn ra biết bao nhiêu cuộc tụ họp của người dân
thủ đô. Ông José Martín sinh năm 1853 là một nhà báo kiêm thi sĩ, và là người
hoạt động chống lại sự chiếm đóng
Ông bị bắt, ban đầu bị
đầy bên Tây Ban Nha rồi bên Mêhicô. Ông đã sống tại Mỹ châu Latinh, Paris và
New York trước khi trở về Cuba, và bị giết trong cuộc giao tranh với người Tây
Ban Nha năm 1895. Khi còn sống, ông đã rất nổi tiếng vì các bài khảo luận chính
trị, và ngày nay ông được coi là một trong các người khởi đầu trường phái thi
ca tân tiến của Mỹ châu Latinh.
Ông Antonio Tejero, đặc
trách giới trẻ của tổng giáo phận La Habana, cho biết tối thứ ba hàng chục ngàn
người trẻ đã tham dự buổi canh thức cầu nguyện suốt đêm trong nhà thờ chính
tòa, rồi từ sáng sớm đã rước ảnh Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng đi ngang qua các giáo
xứ, cùng nhập đoàn với giáo dân đi bộ tiến về quảng trường Cách Mạng để tham dự
thánh lễ do Đức Thánh Cha chủ sự.
Xe bọc kính đã chở Đức
Thánh Cha đi một vòng quảng trường để ngài chào biển tín hữu đông đặc khắp nơi
khoảng gần 1 triệu người.
Thánh lễ đã bắt đầu lúc
9 giờ sáng. Cùng đồng tế thánh lễ với Đức Thánh Cha có các Hồng Y và Giám Mục
Cuba, đoàn tùy tùng, các Hồng Y Giám Mục khách, và hàng trăm linh mục. Bàn thờ
dựng trên khán đài cao có bao lơn mầu xanh. Tượng Đức Mẹ Bác Ái Mỏ Đồng mặc áo
thêu mầu trắng được đặt phía bên trái bàn thờ. Phần thánh ca do một ban nhạc và
mấy trăm ca viên mặc đồng phục mầu tím đảm trách.
Giảng trong thánh lễ
Đức Thánh Cha đã quảng diễn ý nghĩa các bài đọc. Ngài nêu bật lòng can đảm của
ba thiếu niên trong sách Đaniel, thà chết chứ không phản bội đức tin và bất
trung với Thiên Chúa, cũng như lời Chúa Giêsu mời gọi sống trong chân lý để
được thực sự tư do. Đức Thánh Cha nói:
Trong bài đọc thứ nhất
vừa nghe ba người trẻ bị vua Babilonia bách hại thích đương đầu với cái chết bị
thiêu đốt bởi lửa hơn là phản bội lương tâm và đức tin của họ. Họ tìm ra sức
mạnh để “ca ngợi, vinh danh và chúc tụng Thiên Chúa” với xác tín rằng Chúa của
vũ trụ và lịch sử không bỏ rơi họ cho cái chết và cho hư không. Thật thế, Thiên
Chúa không bao giờ bỏ rơi con cái Người, và không bao giờ quến họ. Người ở bên
trên chúng ta, và có khả năng cứu thoát chúng ta với quyền năng của Người. Đồng
thời Thiên Chúa cũng gần gũi dân Người và qua Con của Người là Đức Giêsu Kitô
Người muốn ở giữa chúng ta.
Trong Phúc Âm Đức Giêsu
tự mạc khải như là Con Thiên Chúa Cha, Đấng Cứu Thế, Người duy nhất có thể chỉ
cho thấy chân lý và trao ban sự thật đích thực. Giáo huấn của Người khơi dậy sự
kháng cự và lo âu giữa những người nói chuyện với Người. Người tố cáo họ muốn
tìm cái chết của Người, nhưng khuyến khích họ tin và ở lại trong Lời Người để
hiểu biết sự thật.
Thật thế, sự thật là
một khát vọng của con người và việc tìm kiếm nó luôn luôn giả thiết việc tập
tành tự do đích thực. Nhưng nhiều người thích các lối tắt để tránh nhiệm vụ ấy.
Một vài người như quan Philatô, cười nhạo khả năng hiểu biết sự thật (x. Ga
18,38) bằng cách tuyên bố con người không có khả năng đạt tới nó, hay từ chối
rằng có một sự thật cho tất cả mọi người. Thái độ này cũng như trường hợp của
khuynh hướng hoài nghi và chu trương tương đối thay đổi con tim của họ, khiến
cho họ trở thành lạnh nhạt, lảo đảo, xa cách các người khác và khép kín co cụm
trong chính mình.
Tiếp tục bài giảng Đức
Thánh Cha nói: đàng khác cũng có những người giải thích sai việc tìm kiếm chân
lý, dẫn đưa họ tới chỗ vô lý và cuồng tín, vì thế họ khép kín trong “sự thật
của họ” và tìm áp đặt nó trên người khác. Họ như những người vụ luật lệ, mù
quáng khi thấy Đức Giêsu bị đánh đập chảy máu, thì diên loan kêu lên: “Đóng
đinh nó vào thập giá!” (x. Ga 19,6). Thật ra, ai hành động một cách vô lý, thì
không thể là môn đệ Đức Giêsu. Đức tin và lý trí cần thiết và bổ túc cho nhau
trong việc kiếm tìm chân lý. Thiên Chúa đã dựng nên con người với một ơn gọi
bẩm sinh tin vào chân lý và vì thế Người ban cho nó lý trí. Mọi người đều phải
dò xét sự thật và lựa chọn nó khi tìm ra nó, cả khi có phải đương đầu với các
hy sinh đi nữa. Đức Thánh Cha nói thêm về sự thật như sau:
Ngoài ra, sự thật về
con người là một giả thiết không thể tránh né được để đạt đến sự tự do, bởi vì
trong nó chúng ta khám phá ra các nền tảng của một luân lý đạo đức, mà tất mọi
người đều có thể đối chiếu, và nó chứa đựng các công thức rõ ràng, chính xác
liên quan tới sự sống và cái chết, các nhiệm vụ và các bổn phận, hôn nhân, gia
đình, và xã hội, nói cho cùng liên quan tới phẩm giá bất khả xâm phạm của con
người. Gia tài luân lý đạo đức ấy là điều có thể làm xích lai gần nhau mọi nền
văn hóa, các dân tộc và các tôn giáo, các chính quyền và các công dân, các công
dân với nhau và các người tin nơi Chúa Kitô và những kẻ không tin nơi Người.
Khi nêu cao các gía trị
nâng đỡ luân lý đạo đức, Kitô giáo không áp đặt, nhưng đề nghị lời Chúa Kitô
mời gọi hiểu biết sự thật, khiến cho con người được tự do. Tín hữu được mời gọi
cống hiến kho tàng đó cho các người đồng thời như Chúa đã làm, cả khi có cảm
thấy trước sự khước từ và Thập Giá đi nữa.
Đức Thánh Cha nói thêm
trong bài giảng: Anh chị em thân mến, đừng ngần ngại theo Chúa Giêsu Kitô. Nơi
Người chúng ta tìm ra sự thật về Thiên Chúa và về con người. Người giúp chúng
ta đánh bại các ích kỷ của chúng ta, ra khỏi các tham vọng và chiến thắng điều
áp bức chúng ta. Ai làm điều ác, ai phạm tội, thì làm nô lệ của tội lỗi, và sẽ
không bao giờ đạt sự tự do (x. Ga 8,34). Chỉ khi khước từ thú hận và con tim
chai đứng mù lòa của mình, chúng ta mới tự do, và một cuộc sống mới sẽ nảy mầm
trong chúng ta.
Chúa Giêsu là Đường, là
Sự Thật và là Sự Sống. Nơi Người chúng ta tìm thấy sự tự do tràn đầy và ánh
sáng giúp hiểu thực tại một cách sâu xa và biến đổi nó với sức mạnh canh tân
của tình yêu thương. Giáo Hội sống để làm cho người khác tham dự vào điều duy
nhất Giáo Hội có: đó là Chúa Kitô, niềm hy vọng vinh quang (x. Cl 1,27). Để có
thể chu toàn nhiệm vụ ấy, Giáo Hôi phải dựa trên sự tự do tôn giáo nòng cốt,
bao gồm việc có thể loan báo và cử hành công khai đức tin, chuyển tiếp cho
người khác sứ điệp tình yêu hòa giải và hòa bình, mà Chúa Giêsu đem đếm cho thế
giới. Đức Thánh Cha nhận định về tình hình tại
Cần thừa nhận với niềm
vui rằng tại
Quyền tự do tôn giáo
trong chiều kích cá nhân cũng như trong chiều kích cộng đoàn biểu lô sự hiệp
nhất của bản vị con người, vừa là công dân vừa là tín hữu. Cũng là điều hợp
pháp việc các tín hữu góp phần xây dựng xã hội. Việc củng cố nó khiến cho sự
sống chung được vững chãi, dưỡng nuôi hy vọng vào một thế giới tốt lành hơn,
tạo ra các điều kiện thuận lợi cho hòa bình và phát triển hòa hợp, đồng thời
thiết lập các nền móng vững chãi bảo dảm các quyền của các thế hệ tương lai.
Rồi Đức Thánh Cha kết
thúc bài giảng như sau:
Khi Giáo Hội nêu bật
quyền tự do tôn giáo, Giáo Hội không đòi hỏi đặc ân nào, nhưng chỉ yêu sách
trung thành với sứ mệnh, mà Đấng sáng lập là Chúa Kitô đã giao phó cho mình, vì
ý thức rằng nơi đâu có Chúa Kitô hiện diện, thì ở đó con người lớn lên trong
nhân bản và tìm thấy sự vững vàng của nó. Chính vì thế Giáo Hội tìm cống hiến
chứng tá đó trong việc rao giảng và dậy dỗ trong giáo lý cũng như trong các mội
trường đào tạo và đại học. Hy vọng rằng sẽ mau đến lúc Giáo Hội có thể đem các
lợi ích sứ mệnh của mình vào trong các lãnh vực khác nhau của sự hiểu biết. Thí
dụ điển hình là linh mục Felex Varela, nhà giáo dục, bậc thầy và là người con
ưu tú của thành phố La Habana này, mà lịch sử Cuba coi như người đầu tiên đã
dậy cho người dân biết suy tư, và đã biến đổi xã hội.
Đức Thánh Cha xin Mẹ
Maria Rất Thánh cho mọi người trở thành chứng nhân của lòng bác ái, luôn đáp
trả lại sự ác bằng sự thiện.
Trong khi Đức Thánh Cha
cho một số tín hữu rước lễ hàng trăm linh mục, các Phó tế, và hàng ngàn thừa
tác viên thánh thể đã phân phát Mình Thánh Chúa cho giáo dân.
Sau khi chào từ biệt
các tín hữu Đức Thánh Cha đã lên xe bọc kính trở về Tòa Sứ Thần Tòa Thánh để
dùng bữa trưa với đoàn tùy tùng và nghỉ ngơi trước khi ra phi trường lấy máy
bay về Roma.
Linh Tiến Khải