Đức Thánh Cha phê bình chủ trương dùng bất tuân phục để canh tân
Giáo Hội
Radiovaticana 05/04/2012 17.20.47 –
Hồi tháng 6-2011, mhóm LM người Áo, dưới dưới lãnh đạo của
LM Helmut Schueller, nguyên Tổng đại diện giáo phận Vienne, đã đề ra điều gọi
là “Sáng kiến của các cha sở”, qua đó họ kêu gọi “Bất tuân phục Roma”, cổ võ
truyền chức LM cho phụ nữ, cho phép những người ly dị và các tín hữu Công Giáo
không Kitô và những người đã ra khỏi Giáo hội Công Giáo được rước lễ. Các buổi
phụng vụ lời Chúa trong đó có phần cho rước lễ phải được coi là “các thánh lễ
không có linh mục”.
Theo nhóm này, có 400 LM ủng hộ và tham gia “Sáng kiến của
các cha sở” không những tại Áo, nhưng còn tại Đức và nước khác. Họ bất chấp
luật không giáo dân giảng trong thánh lễ, bổ nhiệm giáo dân coi sóc các giáo
xứ, bất phân biệt nam nữ, tình trạng gia đình, cho phụ nữ và những người có gia
đình làm linh mục.
ĐHY Christoph Schoenborn, TGM giáo phận Vienne, Chủ tịch
HĐGM Áo, cố gắng đối thoại với nhóm LM này, nhưng từ khước mọi yêu cầu của họ.
Trong bài giảng thánh lễ làm phép dầu, ĐTC đã nhắc đến nhóm
LM đó và bác bỏ lập luận của họ. Ngài cổ võ các LM trở nên đồng hình dạng với
Chúa Kitô, Đấng đã vâng phục cho đến chết, và xác quyết rằng: “Sự trở nên đồng
hình dạng với Chúa Kitô chính là điều kiện phải có và là nền tảng của mọi sự
canh tân”.
ĐTC cũng đề cao vai trò của các thánh, như “những bản dịch”
lối sống của Chúa Kitô đối với các tín hữu của Người, lối sống mà họ có thể
thấy và có thể noi theo. Từ Thánh Phaolô, qua dòng lịch sử, liên tục có “những
bản dịch” như thế về đời sống của Chúa Giêsu trong những nhân vật lịch sử sinh
động. Sau cùng, ĐTC cổ võ các LM hãy tận dụng Năm Đức Tin để giúp các tín hữu
đào sâu giáo lý và sự hiểu biết về Chúa Giêsu, đồng thời ngài nhắn nhủ
Đồng tế với ĐTC trong thánh lễ bắt đầu lúc 9.30 sáng tại
Đền thờ Thánh Phêrô có 40 Hồng Y và 60 GM thuộc các cơ quan trung ương Tòa
Thánh và tòa Giám Quản Roma, cùng với 1.600 ngàn Linh mục, trước sự hiện diện
của gần 7 ngàn tín hữu.
Sau bài giảng của ĐTC, các HY, GM và LM hiện diện đã cử
hành nghi thức lập lại những lời đã hứa khi chịu chức linh mục. Tiếp đến, Ngài
đã làm phép dầu dự tòng, dầu bệnh nhân và dầu thánh hiến (Crisma). Dưới đây là
nguyên văn bài giảng của Đức Thánh Cha:
Anh chị em thân mến!
Trong Thánh Lễ này, chúng ta nghĩ đến lúc mà Đức Giám Mục,
qua việc đặt tay và cầu nguyện, dẫn đưa chúng ta vào trong chức linh mục của
Chúa Giêsu Kitô, để chúng ta được “thánh hiến trong chân lý” (Ga 17,19), như
Chúa Giêsu, trong Kinh nguyện tư tế, đã cầu xin Chúa Cha cho chúng ta. Chính
Ngài là Chân Lý. Ngài đã thánh hiến chúng ta, nghĩa là trao chúng ta vĩnh viễn
cho Thiên Chúa, để từ Thiên Chúa và hướng về Ngài, chúng ta có thể phục vụ loài
người. Nhưng chúng ta có được thánh hiến cả trong thực tại cuộc sống của chúng
ta hay không? Chúng ta có phải là những người đang hoạt động từ Thiên Chúa và
hiệp thông với Chúa Giêsu Kitô hay không? Chúa đang đứng trước chúng ta với câu
hỏi này, và chúng ta đứng trước Ngài. “Các con có muốn kết hiệp thân tình với
Chúa Giêsu Kitô và trở nên đồng hình dạng với Chúa, từ bỏ chính mình và canh
tân những lời hứa, củng cố những cam kết thánh thiêng mà trong ngày chịu chức
các con đã vui mừng đón nhận hay không?” Đó là câu hỏi được nêu lên với mỗi
người trong anh em và chính tôi sau bài giảng này. Qua đó có hai điều được đặc
biệt diễn tả: chúng ta được yêu cầu có một mối liên hệ nội tâm, hay đúng hơn là
trở nên đồng hình dạng với Chúa Kitô, và qua đó nhất thiết phải vượt lên trân
bản thân chúng ta, từ bỏ những gì chỉ là chúng ta mà thôi, từ bỏ sự tự thể hiện
thường rất được biểu dương. Chúng ta được yêu cầu không đòi một cuộc sống riêng
cho bản thân, nhưng đặt để cuộc sống ấy cho một người khác sử dụng, đó là Chúa
Kitô. Chúng ta đừng hỏi: điều ấy có lợi gì cho tôi?, trái lại cần phải hỏi: Tôi
có thể hiến dâng gì cho Chúa và cho tha nhân? Hoặc cụ thể hơn nữa: sự trở nên
đồng hình dạng với Chúa Kitô ấy phải được thực hiện thế nào? Chúa Kitô không
thống trị nhưng phục vụ; không chiếm hữu, nhưng cho đi - điều ấy phải được thể
hiện thế nào trong tình trạng nhiều khi bi thảm của Giáo Hội ngày nay? Mới đây
một nhóm linh mục tại một nước Âu Châu đã công bố lời kêu gọi bất tuân phục,
đồng thời đưa ra những thí dụ cụ thể qua đó người ta có thể biểu lộ sự bất tuân
phục ấy, một sự bất tuân phục làm ngơ không biết đến những quyết định chung kết
của Huấn quyền Hội Thánh - ví dụ trong vấn đề truyền chức cho phụ nữ mà Đức
Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đã tuyên bố một cách không thể hồi lại
rằng Giáo Hội không hề được Chúa cho phép về vấn đề. Phải chăng bất tuân phục
là một con đường để canh tân Giáo Hội? Chúng ta có muốn tin các tác giả của lời
kêu gọi ấy khi họ quả quyết là họ được thúc đẩy do mối quan tâm đối với Giáo
Hội hay không? Chúng ta có tin họ khi họ nói họ xác tín rằng cần phải đương đầu
với sự chậm chạp của các Cơ Chế bằng những phương thế quyết liệt, hầu mở ra
những con đường mới - để đưa Giáo Hội lên mức độ cao xứng với ngày nay hay
không? Nhưng sự bất tuân phục là một con đường hay không? Trong thái độ bất
tuân phục như thế, ta có thể nhận ra điều gì là trở nên đồng hình dạng với Chúa
Kitô hay không? Sự đồng hình đồng dạng ấy là một điều kiện tiên quyết phải có
để canh tân đích thực, hay chỉ là một sự thúc đẩy tuyệt vọng làm một cái gì đó
để biến đổi Giáo Hội theo ước muốn và tư tưởng của chúng ta?
Nhưng chúng ta không nên quá đơn giản hóa vấn đề. Phải
chăng Chúa Kitô đã chẳng sửa chữa các truyền thống phàm nhân đe dọa bóp nghẹt
lời nói và ý chí của Thiên Chúa sao? Đúng thế, Chúa đã làm điều ấy để tái thức
tỉnh sự vâng phục đối với ý muốn đích thực của Thiên Chúa, với lời Chúa luôn
luôn giá trị. Ngài thực sự quan tâm đến sự vâng phục đích thực, chống lại phán
đoán độc đoán của con người. Và chúng ta đừng quên rằng: Ngài là Chúa Con, với
quyền bính và trách nhiệm đặc biệt biểu lộ ý muốn chân thực của Thiên Chúa, và
qua đó mở con đường Lời Chúa hướng về thế giới dân ngoại. Và sau cùng: Ngài đã
cụ thể hóa sứ mạng của Ngài qua sự tuân phục và hạ mình cho đến Thập Giá, và
qua đó làm cho sứ mạng của Ngài trở nên đáng tin. Không phải ý Con, nhưng là ý
Cha: đó là lời biểu lộ Chúa Con, sự khiêm hạ và cùng với thần tính của Ngài, và
lời ấy chỉ đường cho chúng ta”.
Một lần nữa chúng ta hãy hỏi thêm: Phải chăng với những
nhận xét như thế, trong thực tế người ta bênh vực thái độ bất động, sự cứng
nhắc của truyền thống? Không phải vậy. Ai nhìn lịch sử thời hậu Công đồng, đều
có thể nhận thấy tính chất sinh động của sự canh tân đích thực, thường có những
hình thức bất ngờ trong các phong trào đầy sức sống, và làm cho sức sinh động
khôn lường của Hội Thánh, sự hiện diện và hoạt động hiệu năng của Chúa Thánh
Linh trở thanh một điều hầu như có thể động chạm được. Và nếu chúng ta nhìn
những người từ đó đã và đang nảy sinh những dòng sông tươi mát của sự sống,
chúng ta cũng thấy rằng để được tái phong phú, chúng ta cần được tràn đầy niềm
vui đức tin, tính chất quyết liệt của sự vâng phục, niềm hy vọng sinh động và
sức mạnh của tình yêu.
Các bạn thân mến, rõ ràng là sự trở nên đồng hình dạng với
Chúa Kitô chính là điều kiện phải có và là nền tảng của mọi sự canh tân. Nhưng
có lẽ hình ảnh Chúa Kitô nhiều khi đối với chúng ta quá cao cả và lớn lao,
khiến chúng ta không dám lấy Ngài làm mẫu mực. Chúa biết điều đó. Vì thế, Ngài
đã dự trù “những bản dịch” để sự cao cả và lớn lao của Ngài trở nên gần gũi và
vừa tầm hơn với chúng ta. Chính vì thế, Thánh Phaolô không ngại nói với các
cộng đoàn của Người rằng: Anh chị em hãy bắt chước tôi, nhưng tôi thuộc về Chúa
Kitô. Thánh nhân là một “bản dịch” lối sống của Chúa Kitô đối với các tín hữu
của Người, lối sống mà họ có thể thấy và có thể noi theo. Từ Thánh Phaolô, qua
dòng lịch sử, liên tục có “những bản dịch” như thế về đời sống của Chúa Giêsu
trong những nhân vật lịch sử sinh động. Các linh mục chúng ta có thể nghĩ đến
một hàng ngũ đông đảo các linh mục thánh thiện, đã đi trước để chỉ đường cho
chúng ta: bắt đầu từ thánh Policarpo thành Smirne và thánh Ignatio thành
Antiokia, qua các vị đại mục tử như thánh Ambroxio, Augustino, và Gregorio Cả,
cho đến thánh Ignatio Loyola, Carlo Borromeo, Gioan Maria Vianney, tới các linh
mục tử đạo hồi thế kỷ 20, và sau cùng đến ĐGH Gioan Phaolô 2, qua hoạt động và
đau khổ, Người nêu gương cho chúng ta về sự trở nên đồng hình dạng với Chúa
Kitô, như “hồng ân và mầu nhiệm”. Các thánh chỉ cho chúng ta thấy sự canh tân
tiến hành như thế nào và chúng ta có thể phục vụ sự canh tân ấy ra sao. Các vị
cũng làm cho chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa không xét những số lượng lớn và
những thành công bên ngoài, nhưng Ngài mang lại những chiến thắng trong dấu chỉ
khiêm hạ của hạt cải bé nhỏ.
Các bạn thân mến, tôi muốn nói sơ qua hai lời chủ yếu của
sự canh tân những lời hứa của linh mục, giúp chúng ta suy nghĩ trong giờ này
của Giáo Hội và của đời sống bản thân chúng ta. Trước tiên là nhớ đến sự kiện
chúng ta là “những người quản lý các mầu nhiệm Thiên Chúa” (1 Cr 4,1) như thánh
Phaolô đã nói, và chúng ta có sứ vụ giảng dạy (munus docendi), vốn là thành
phần của việc quản lý các mầu nhiệm Thiên Chúa, trong đó Chúa chỉ cho chúng ta
tôn nhan và con tim của Ngài, để ban chính mình cho chúng ta. Trong cuộc gặp gỡ
các Hồng Y nhân dịp công nghị mới đây, nhiều vị Chủ Chăn, do kinh nghiệm của các
vị, đã nói về sự dốt nát về giáo lý đang lan tràn trong xã hội thông minh của
chúng ta. Những yếu tố cơ bản của đức tin, mà xưa kia mỗi trẻ em đều biết, nay
ngày càng được biết đến. Nhưng để có thể sống và yêu mến đức tin của chúng ta,
để có thể yêu mến Thiên Chúa và nhờ đó có thể lắng nghe Chúa một cách đúng đắn,
chúng ta phải biết Thiên Chúa nói gì với chúng ta; lý trí và con tim của chúng
ta phải được Lời Chúa đánh động. “Năm Đức Tin”, kỷ niệm 50 năm khai mạc Công
đồng chung Vatican 2, đối với chúng ta phải là một cơ hội để loan báo sứ điệp
đức tin với lòng nhiệt thành mới và niềm vui mới mẻ. Dĩ nhiên chúng ta tìm thấy
điều đó một cách cơ bản và trước tiên trong Kinh Thánh mà chúng ta không bao
giờ đọc và suy niệm cho đủ. Trong vấn đề này tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm
cần được giúp đỡ để thông truyền đức tin một cách đúng đắn hiện nay, để thực sự
đánh động tâm hồn. Trợ lực này chúng ta tìm thấy trước tiên trong lời của Giáo
Hội giảng dạy: các văn kiện của Công đồng chung Vatican 2 và Sách Giáo Lý của
Hội Thánh Công Giáo là những dụng cụ thiết yếu chỉ dẫn cho chúng ta một cách
chính thức điều mà Giáo Hội tin từ Lời Chúa. Và dĩ nhiên tất cả kho tàng các
văn kiện mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phalô 2 cho chúng ta cũng thuộc vào số các tài
liệu ấy và chưa được khai thác sâu rộng.
Mỗi việc loan báo của chúng ta phải được đo lường theo lời
Chúa Giêsu Kitô: “Đạo lý của tôi không phải là của tôi” (Ga 7,16). Chúng ta
không loan báo những lý thuyết và ý kiến riêng, nhưng là đức tin của Giáo Hội
mà chúng ta là những người phục vụ. Nhưng dĩ nhiên điều này không có nghĩa là
tôi không ủng hộ đạo lý này với trọn con người của tôi và không bén rễ chắc
chắn trong đó. Trong bối cảnh này tôi nghĩ đến lời thánh Augustino: Điều gì là
của tôi cho bằng chính tôi? Điều gì ít là của tôi cho bằng chính tôi? Tôi không
thuộc về mình và tôi trở thành chính tôi do sự kiện tôi đi ra ngoài bản thân
tội và nhờ sự vượt lên trên chính tôi, tôi được tháp nhập vào Chúa Kitô và
trong Thân Thể của Ngài là Giáo Hội. Nếu chúng ta không loan báo chính mình và
nếu trong thâm tâm chúng ta trở thành một với Đấng đã kêu gọi chúng ta làm sứ
giả của Ngài đến độ chúng ta được đức tin uốn nắn và sống đức tin, thì khi ấy
lời giảng của chúng ta đáng tin. Tôi không quảng cáo chính mình, nhưng hiến
thân mình. Cha Sở họ Ars không phải là một nhà thông thái, trí thức, như chúng
ta đã biết. Nhưng với lời rao giảng của Người, Người đánh động tâm hồn dân
chúng, vì chính thánh nhân đã được đánh động trong tâm hồn.
Lời nói chủ yếu cuối cùng tôi muốn nhắc đến là lòng nhiệt
thành đối với các linh hồn (animarum zelus). Đó là một kiểu nói lỗi thời mà
ngày nay hầu như người ta không dùng nữa. Thậm chí, trong một số môi trường, từ
“linh hồn” là một từ bị cấm dùng, vì người ta nói, từ này diễn tả thuyết nhị
nguyên giữa thân xác và linh hồn, phân chia con người một cách sai lầm. Chắc
chắn con người là đơn nhất, có một vận mệnh đời đời cùng với xác và hồn. Nhưng
điều này không thể có nghĩa là chúng ta không còn một linh hồn nữa, một nguyên
lý cấu thành bảo đảm sự thống nhất của con người trong cuộc sống và vượt lên
trên cái chết thể lý. Và trong tư cách là linh mục, dĩ nhiên chúng ta lo lắng
cho con người toàn diện, cả những nhu cầu thể lý - những người đói, bệnh nhân,
những người không gia cư. Nhưng chúng ta không chỉ lo về thân xác, nhưng cả
những nhu cầu của linh hồn nữa: những người đang chịu đau khổ vì bị vi phạm
quyền, hoặc vì một tình yêu bị phá hủy; những người ở trong tối tăm đối với
chân lý; những người đang đau khổ vì thiếu chân lý và tình thương. Chúng ta lo
âu cho phần rỗi của con người trong thân xác và linh hồn. Và trong tư cách là
linh mục của Chúa Kitô, chúng ta thi hành điều ấy với lòng nhiệt thành. Cần làm
sao để người ta không bao giờ có cảm tưởng: chúng ta chu toàn kỹ lưỡng thời
biểu làm việc của chúng ta, nhưng trước sau chúng ta chỉ thuộc về chính mình.
Một linh mục không bao giờ thuộc về chính mình. Người ta phải nhận thấy lòng
nhiệt thành của chúng ta, qua đó chúng ta làm chứng tá về Tin Mừng của Chúa
Kitô một cách đáng tin cậy. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta được tràn
đầy niềm vui về sứ điệp của Ngài, để với lòng nhiệt thành vui tươi, chúng ta có
thể phụng sự chân lý và tình thương của Ngài. Amen.
G. Trần Đức Anh OP chuyển ý