Chúa Kitô phục sinh mở các nấm
mồ con tim và ban đức tin hăng say cho các môn đệ
Radiovaticana 11/04/2012 18.33.11 – Mùa Phục
Sinh là dịp thuận tiện giúp tất cả chúng ta tái khám phá ra các suối nguồn của
đức tin và sự hiện diện của Chúa Phục Sinh giữa chúng ta với niềm vui và lòng
hăng say; tái khám phá ra Lời Chúa và bí tích Thánh Thể như hai môn đệ trên đường
làng Emmaus.
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với
hơn 40.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung
tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư 11-4-2012.
Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã trình bầy đề
tài Chúa Kitô Phục Sinh biến đổi tâm trí các môn đệ. Người mở toang các nấm mồ
của trái tim và trao ban cho họ nhiệt huyết đức tin. Vào chiều ngày Phục Sinh
các môn đệ ở trong nhà đóng kín cửa vì sợ người do thái (Ga 20,19). Sự sợ hãi
làm cho con tim họ co thắt, và ngăn cản họ ra đi gặp gỡ tha nhân và cuộc sống.
Thầy không còn nữa. Ký ức về cuộc Khổ Nạn của Người nuôi dưỡng sự bất an. Nhưng
Chúa Giêsu lưu tâm đến các môn đệ và sắp sửa hoàn thành điều đã hứa trong Bữa
Tiệc Ly: “Thầy không để các con mồ côi, Thầy sẽ đến với các con” (Ga 14,18). Và
đó là điều Người cũng nói với chúng ta ngày nay trong các giai đoạn ảm đạm đen
tối: “Thầy sẽ không để các con mồ côi”. Đức Thánh Cha nói:
Tình trạng lo lắng này của các môn đệ thay đổi
một cách triệt để với biến cố Chúa Giêsu tới. Người vào nhà khi cửa đóng kín,
ngự giữa các ông và ban cho các ông sự bình an trấn tĩnh: “Bình an cho các con”
(Ga 20,19). Đây là một lời chào thông thường, nhưng giờ đây mang một ý nghĩa mới,
bởi vì nó tạo ra một sự thay đổi nội tâm. Nó là lời chào phục sinh khiến cho
các môn đệ thắng vượt mọi sợ hãi. Sự bình an mà Chúa Giêsu đem tới là ơn cứu độ
Người đã hứa trong các diễn văn từ biệt các môn đệ: “Thầy để lại bình an cho
các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không theo
kiểu thế gian. Các con đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14,27). Trong ngày
Phục Sinh này Chúa ban bình an tràn đầy cho chúng ta và nó trở thành cho cộng
đoàn suối nguồn của niềm vui, sự chắc chắn của chiến thắng, sự an ninh cậy dựa
vào Thiên Chúa.
Sau lời chào đó Chúa Giêsu cho các môn đệ trông
thấy các vết thương ở tay và cạnh sườn (Ga 20,20), dấu chỉ của điều đã xảy ra
và sẽ không bao giờ bị xóa bỏ nữa: nhân tính vinh quang của Người bị thương
tích. Cử chỉ này có mục đích xác nhận thực tại mới của sự Phục Sinh: Chúa Kitô
đang ở giữa các môn đệ Người là một người thật sự, là chính Đức Giêsu mà ba
ngày trước đó đã bị đóng đanh vào thập giá. Chính như thế mà trong ánh sáng
chói ngời của sự Phục Sinh, trong cuộc gặp gỡ với Chúa Phục Sinh các môn đệ tiếp
nhận được ý nghĩa cứu độ của cuộc khổ nạn và cái chết của Người. Khi đó từ buồn
sầu và sợ hãi các ông bước sang niềm vui tràn đầy. Các buồn sầu và thương tích
trở thành suối nguồn của niềm vui. Niềm vui nảy sinh trong con tim của các ông
bắt nguồn từ việc “trông thấy Chúa” (Ga 20,20). Người lại nói với họ: “Bình an
cho các con” (c. 21). Hiển nhiên đây không còn là lời chào thông thường nữa, mà
là một ơn mà Chúa Phục Sinh muốn ban cho các bạn hữu Người, đồng thời là một lệnh
truyền: sự bình an đã được Chúa Kitô chiếm hữu với máu của Người được dành để
cho họ và cho tất cả mọi người, và các môn đệ có bổn phận mang nó đến cho toàn
thế giới. Thật vậy Chúa Kitô nói: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai
các con”. Chúa Giêsu phục sinh trở lại với các môn đệ để gửi các ông ra đi. Người
đã hoàn thành công trình của Người trong thế gian, giờ đây tới phiên các môn đệ
gieo vãi đức tin trong các con tim, để Thiên Chúa Cha được hiểu biết và yêu
thương quy tụ các con cái Người tản mác khắp nơi lại. Nhưng Chúa Giêsu biết
trong tim các môn đệ vẫn còn có sự sợ hãi, nên Người làm cử chỉ thổi trên họ và
tái sinh họ trong Thần Khí của Người (x. Ga 20,22): đó là cử chỉ của việc tạo dựng
mới. Đức Thánh Cha giải thích ý nghĩa cử chỉ này như sau:
Thật thế, với ơn Thánh Thần đến từ Chúa Kitô phục
sinh, một thế giới mới bắt đầu. Với việc gửi các môn đệ ra đi bắt đầu con đường
của dân giao ước mới trong thế giới, dân tin nơi Người và công trình cứu độ của
Người, dân làm chứng cho sự thật của sự phục sinh. Sự mới mẻ này của một cuộc sống
không chết, đã được lễ Phục Sinh đem tới được phổ biến khắp nơi, để các gai góc
của tội lỗi đả thương trái tim con người nhường chỗ cho các mầm giống của Ơn
Thánh, của sự hiện diện của Thiên Chúa và tình yêu của Người, chiến thắng tội lỗi
và cái chết.
Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: Các bạn
thân mến, cả ngày nay nữa, Chúa Phục Sinh bước vào trong nhà và con tim của
chúng ta, mặc dù thường khi cửa đóng. Người vào và ban niềm vui, sự bình an, sự
sống và niềm hy vọng, là các ơn mà chúng ta cần đến cho sự tái sinh nhân bản và
tinh thần của chúng ta. Đức Thánh Cha quảng diễn thêm điểm này như sau:
Chỉ có Người mới có thể lay động các tảng đá lấp
huyệt mộ, mà con người thường lăn lên trên các tâm tình, các tương quan, các
cung cách hành xử của mình, các tảng đá thừa nhận cái chết: các chia rẽ, các
thù nghịch, bất hòa, oán hận, ghen tương, nghi ngờ, thờ ơ. Chỉ có Chúa, Đấng Hằng
Sống, mới có thể trao ban ý nghĩa cho cuộc sống và khiến cho người mệt mỏi và
buồn sầu, mất tin tưởng và không hy vọng tiếp tục tiến bước. Đó là điều hai môn
đệ trên đường từ Giêrusalem về làng Emmaus đã sống trong ngày lễ Phục Sinh (x.
Lc 24,13-35). Họ nói về Đức Giêsu, nhưng gương mặt sầu muộn của họ diễn tả các
niềm hy vọng tan vỡ, sự bất an và nỗi nhớ tiếc. Họ đã bỏ quê sinh để theo Đức
Giêsu với các bạn hữu, và họ đã khám phá ra một thực tại mới, trong đó sự tha
thứ và tình yêu thương không phải chỉ là các lời nói, nhưng họ đã sờ mó được sự
hiện hữu của Đức Giêsu một cách cụ thể. Đức Giêsu thành Nagiarét đã khiến cho tất
cả mọi sự đều mới mẻ, đã biến đổi cuộc sống của họ. Nhưng giờ đây Người đã chết
và tất cả xem ra chấm dứt.
Tuy nhiên bất thình lình có ba người bộ hành, chứ
không phải là hai nữa. Đức Giêsu tới gần hai môn đệ và cùng đi với họ, nhưng họ
không có khả năng nhận ra Người. Chắc chắn họ đã nghe các tiếng nói về sự phục
sinh của Người, vì họ kể: “Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng
tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, không thấy xác
Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống”
(cc. 22-23). Nhưng tất cả những điều đó đã không đủ để thuyết phục họ, bởi vì “họ
đã không thấy Người” (c. 24). Khi đó Chúa Giêsu mới kiên nhẫn giải thích cho họ
hiểu những gì liên quan đến Người, bắt đầu từ ông Môshê và tất cả các ngôn sứ.
Chúa Giêsu giải thích cho các môn đệ Thánh Kinh bằng cách cống hiến cho các ông
chìa khóa đọc hiểu nền tảng là những gì liên quan tới chính Người và Mầu nhiệm
phục sinh của Người... Ý nghĩa của mọi sự: Lề Luật, các Ngôn sứ, và các Thánh vịnh
bất thình lình mở ra và trở thành rõ ràng trước mắt các ông. Chúa Giêsu đã mở
trí thông minh cho các ông hiểu Thánh Kinh (x. Lc 24,45)...
Trong khi đó thì họ tới làng, chắc là nhà của một
trong hai người. Người khách lạ làm như còn phải đi xa hơn, nhưng vì họ nài nỉ “Hãy
ở lại với chúng tôi”, nên Người ở lại với họ. Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy
bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra, và họ nhận
ra Người, nhưng Người đã biến mất”. Sự hiện diện của Chúa Giêsu, trước tiên với
lời nói rồi với cử chỉ bẻ bánh, khiến cho các môn đệ nhận ra Người và họ có thể
cảm nhận một cách mới mẻ điều họ đã cảm thấy trong khi đồng hành với Người:
lòng họ bừng cháy lên. Câu chuyện này cho thấy có hai nơi giúp chúng ta gặp gỡ
Chúa Phục Sinh biến đổi cuộc sống: việc lắng nghe lời Chúa trong niềm hiệp
thông với Chúa Kitô và việc bẻ bánh: Lời Chúa và Thánh Thể gắn liền mật thiết với
nhau.
Sau cuộc gặp gỡ, ngay lúc ấy hai môn đệ đã trở
lại Giêrusalem chia sẻ kinh nghiệm của họ với Mười Một Tông Đồ và các môn đệ
khác. Những người này nói với họ: “Chúa chỗi dậy thật rồi và đã hiện ra với ông
Simon” (c. 33-34). Hai người đã thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc
mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh. Họ đã được tái sinh vào niềm hy
vọng sống động bởi việc Chúa phục sinh từ cõi chết. Thật thế, tái sinh trong họ
niềm hăng say của đức tin, tình yệu thương đối với cộng đoàn, việc cần phải
thông truyền tin vui cho người khác.
Trước khi cất kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa
thánh cho mọi người, Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác
nhau. Ngài chúc tất cả mùa Phục Sinh sốt mến tràn đầy ơn thánh của Chúa Kitô phục
sinh khải hoàn.
Linh Tiến Khải