HỌP BÁO GIỚI THIỆU TÔNG HUẤN « EVANGELII GAUDIUM » CỦA
ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ VỀ VIỆC LOAN BÁO TIN MỪNG TRONG THẾ GIỚI HIỆN NAY
(26/11/2013)
(xuanbichvietnam.net)
Tháng Mười Một 29th, 2013.
Nền mục vụ truyền giáo cần tập trung vào điều cốt lõi
Evangelii gaudium : Tông huấn của Đức Thánh Cha Phanxicô
được viết dưới ánh sáng của niềm vui, để tái khám phá nguồn mạch của việc loan
báo Tin Mừng trong thế giới hiện đại. Ta có thể tóm tắt nội dung của Tông huấn
như thế, một văn kiện mà Đức Thánh Cha Phanxicô trao cho Giáo Hội để nêu rõ
những con đường mà nền mục vụ phải theo trong một tương lai gần kề. Đó là một lời mời gọi
tìm lại một cái nhìn ngôn sứ và tích cực về thực tại, mà không vì thế che giấu
những khó khăn. Đức Phanxicô khuyến khích chúng ta và thúc giục chúng ta nhìn
về phía trước, bên kia thời kỳ khủng hoảng này, một lần nữa biến thập giá và sự
phục sinh của Chúa Kitô thành « ngọn cờ chiến thắng » (85).
Nhiều lần, Đức Thánh
Cha Phanxicô tham chiếu các Đề nghị của Thượng Hội Đồng tháng Mười 2012, như
thế ngài cho thấy sự đóng góp của Thượng Hội Đồng quan trọng là dường nào trong
việc soạn thảo Tông huấn này. Thế nhưng văn kiện này đi xa hơn kinh
nghiệm của Thượng Hội Đồng. Trong văn kiện này, Đức Thánh Cha đã in dấu không
chỉ kinh nghiệm mục vụ riêng của ngài, nhưng còn lời mời gọi đón nhận thời điểm
ân sủng mà Giáo Hội đang sống, để xúc tiến cách tin tưởng, xác tín và nhiệt
thành giai đoạn mới của việc Phúc Âm hóa. Lấy lại giáo huấn của Tông huấn Evangelii nuntiandi của Đức Phaolô VI, một lần nữa ngài đặt con ngươi Chúa Giêsu-Kitô ở
trung tâm, người loán báo Tin Mừng đầu tiên kêu gọi mỗi người trong chúng ta dự
phần cùng với Ngài vào công trình cứu độ (12). Đức Thánh Cha khẳng định :
« Hoạt động truyền giáo là khuôn mẫu của mọi hoạt động của Giáo Hội »
(15). Vì thế chúng ta phải đón nhận thời điểm thuận lợi này để phân định và
sống « giai đoạn mới » của việc Phúc Âm hóa (17) vốn xoay quanh hai
chủ đề làm nên cốt lõi của Tông huấn. Một mặt, Đức Thánh Cha Phanxicô nói với
các Giáo Hội địa phương, đang đối diện với những thách độ và những cơ hội riêng
cho những khung cảnh văn hóa khác nhau, để chúng có thể cụ thể hóa công việc
tân Phúc Âm hóa nơi các nước của mình. Mặt khác, Đức Thánh Cha chỉ ra một mẫu
số chung, để toàn thể Giáo Hội, và mỗi người loan báo Tin Mừng, có thể thông
qua một phương pháp chung, dấu chỉ rằng việc Phúc Âm hóa là một con đường mà
nhiều người cùng nhau bước đi, chứ không bao giờ cách đơn độc. Bảy điểm, được
gộp trong năm chương của Tông huấn, tạo nên cái nhìn của Đức Thánh Cha về tân
Phúc Âm hóa : việc cải cách Giáo Hội trên con đường sứ vụ, những cám dỗ
của các tác nhân mục vụ, Giáo Hội được hiểu như là toàn bộ Dân Thiên Chúa loan
báo Tin Mừng, bài giảng và việc chuẩn bị bài giảng, giúp người nghèo hội nhập
xã hội, hòa bình và đối thoại xã hội, những động cơ thiêng liêng của việc dấn
thân truyền giáo. Mối liên hệ giữa những chủ đề này là tình yêu đầy lòng thương
xót của Thiên Chúa, Đấng đến gặp gỡ mỗi người để biểu lộ trung tâp của
mạc khải : đời sống của mỗi người tìm thấy ý nghĩa trong việc gặp gỡ Chúa
Kitô và trong niềm vui chia sẻ kinh nghiệm yêu thương này với người khác (8).
Chương đầu tiên khai triển việc cải cách Giáo Hội trên con đường sứ vụ, được mời
gọi « đi ra » khỏi chính mình để đến gặp gỡ tha nhân. Trong chương
này, Đức Thánh Cha diễn tả « tính năng động của sự xuất hành và của việc
trao ban được biểu lộ trong sự kiện đi ra khỏi chính mình, tiến bước và luôn
gieo vãi, và luôn xa hơn » (21). Giáo Hội phải lấy làm của mình « sự
thân thiết với Chúa Giêsu vốn là một sự thân thiết lữ hành » (23). Như
chúng ta đã được quen, Đức Thánh Cha dừng lại ở những kiểu nói vốn gây nên ấn
tượng và tạo ra những từ ngữ mới để giúp hiểu bản chất của việc loan báo
Tin Mừng. Trong số đó, « primerear », tức là Thiên Chúa đi trước
chúng ta trong tình yêu, chỉ ra cho Giáo Hội con đường phải theo. Giáo Hội
không ở trong một ngõ cụt tối tăm, nhưng tiến bước theo chân Chúa Kitô (x. 1 Pr
2, 21), đó là con đường chắc chắn Giáo Hội phải theo. Vì thế Giáo Hội tiến bước
không sợ hãi. Giáo Hội biết rằng mình phải « đến gặp gỡ, tìm kiếm những
người ở xa, đến khắp các ngả đường để mời gọi những người bị loại trừ. Ước muốn
đề nghị lòng thương xót của Giáo Hội là bất tận » (24). Để bước đi trên
con đường này, Đức Thánh Cha Phanxicô nhất mạnh đến « sự chuyển đổi mục
vụ » (« conversion pastorale »), tức là chuyển từ một cái nhìn quan
liêu giấy tờ, tĩnh và hành chánh về mục vụ sang một viễn cảnh truyền giáo,
trong đó mục vụ là luôn trong tư thế loan báo Tin Mừng (25). Cũng như có những
cơ cấu tạo điều kiện và nâng đỡ việc mục vụ truyền giáo, thì bất hạnh thay có
« những cơ cấu trong Giáo Hội có thể hạn chế sự năng động loan báo Tin
Mừng » (26). Sự tồn đọng các thực hành mục vụ lỗi thời và héo úa buộc phải
có tính sáng tạo để suy nghĩ lại việc loan báo Tin Mừng. Theo nghĩa này, Đức
Thánh Cha khẳng định : « Việc xác định những mục tiêu mà không cùng nhau
tìm kiếm những phương thế hành động để đạt tới chúng thì phải nhận vẫn là một
sự thuần túy tưởng tượng » (33).
Do đó cần phải
« tập trung vào điều cốt lõi » (35) và biết rằng chỉ duy một chiều
kích có hệ thống, tức là được thống nhất, tiệm tiến và cân xứng của đức tin,
mới có thể giúp đỡ chúng ta. Giáo Hội phải có thể thiết lập một « phẩm
trật các chân lý » và mối tương quan của mình với trọng tâm của Tin Mừng
(37-39). Chúng ta sẽ phải tránh rơi vào cái bẫy trình bày đức tin chỉ dưới khía
cạnh luân lý, mà làm xa rời đặc tính trung tâm của nó là tình yêu. Trong trường
hợp trái lại, « việc xây dựng Giáo Hội theo kiểu luân lý có nguy cơ sụp đổ
như một tòa nhà mong manh, và điều còn còn nguy hiểm lớn lao hơn nữa »
(39). Đức Thánh Cha nhấn mạnh để chúng ta tìm thấy sự quân bình giữa nội dung
đức tin và ngôn ngữ để diễn đạt nó. Sự cứng nhắc mà chúng ta bám lấy việc làm
rõ ngôn ngữ đôi khi có thể làm hủy hoại nội dung của nó bằng cách bỏ qua cái
nhìn đức tin đích thực (41).
Đoạn quan trọng của
chương này là số 32 trong đó Đức Thánh Cha Phanxicô cho thấy tính cấp bách cần
phải xúc tiến trong một số viễn cảnh của Vatican II. Cách riêng đó là vấn đề
quyền tối thượng của Đấng kế vị thánh Phêrô và các Hội đồng Giám mục. Trong
« Ut unum sint », Đức Gioan-Phaolô II đã từng yêu cầu chúng ta
giúp ngài hiểu rõ hơn các mục tiêu của Đức Thánh Cha trong cuộc đối thoại đại
kết. Đức Thánh Cha Phanxicô cũng trong đường hướng đó và tự hỏi liệu một sự trợ
giúp như thế không thể đạt tới một sự tiến triển cương vị của các Hội đồng Giám
mục. Một đoạn khác (các số 38-45) cũng đặc biệt quan trọng đối với những hệ quả
mà nó bao hàm trong việc mục vụ : trọng tâm của Tin Mừng « được thể
hiện trong những giới hạn của ngôn ngữ nhân loại ». Giáo thuyết được lồng
vào trong « cái lồng ngôn ngữ », nói theo kiểu của Wittgenstein, điều
mà ngụ ý một sự phân định đích thực giữa sự nghèo nàn và những giới hạn của
ngôn ngữ, và sự phong phú – thường vẫn còn chưa biết tới – của nội dung đức
tin. Mối nguy hiểm là thực sự nếu Giáo Hội không quan tâm đến tính năng động
này. Có thể xảy ra rằng, trên một số lập trường, có một sự khép kín và xơ cứng
của sứ điệp Tin Mừng, mà không còn nhận ra nữa sự phát triển riêng của nó.
Chương thứ hai dành cho những thách đố của thế giới hiện đại và những cám dỗ làm
giảm đi việc tân Phúc Âm hóa. Trước tiên, Đức Thánh Cha khẳng định rằng cần
thiết tìm lại căn tính của mình mà không mặc cảm tự ti vốn có thể dẫn đến
« che giấu căn tính và những xác tín của mình… từ đó đi đến chỗ làm
chết ngạt niềm vui truyền giáo nơi một thứ ám ảnh sống như mọi người và sỡ hữu
những gì người khác sở hữu » (79). Do đó các Kitô hữu rơi vào một thứ
« chủ nghĩa tương đối còn nguy hiểm hơn cả thứ chủ nghĩa tương đối giáo
thuyết » (80), bởi vì nó trực tiếp chạm đến cách sống của người Kitô hữu.
Như thế xảy ra là trong nhiều biểu hiện mục vụ, những sáng kiến bị đè nặng bởi
việc đặt sáng kiến lên trước chứ không phải con người ». Cũng thế, thách
đố của việc loan báo Tin Mừng phải được đề cập như là một cơ hội tăng
trưởng, hơn là như một lý do để rơi vào suy sụp. Cái « óc chủ bại »
phải chết đi (88). Chúng ta cần phải tìm lại tính tối thượng của mối tương quan
vị nhân trên kỹ thuật gặp gỡ mà sẽ quyết định làm thế nào, ở đâu và trong bao
lâu cần phải gặp gỡ tha nhân bằng cách khởi đi từ những ưa thích riêng của mình
(88). Trong số cách thách đố này, chúng ta cần phải đối diện với những thách đố
vốn có một tương quan trực tiếp với cuộc sống. « Sự bấp bênh của đời
thường với những hệ quả tai hại của nó », những hình thức khác nhau của
« sự chênh lệch xã hội », của « lòng tôn sùng tiền của và sự độc
tài của một nền kinh tế vô danh », « sự gia tăng tiêu thụ » và
« chủ nghĩa tiêu thụ vô độ »… đặt chúng ta đối diện với một « sự
toàn câu hóa lòng dửng dưng » và một « sự giảm giá chế giễu »
luân lý, vốn loại trừ mọi phê phán đối với sự thống trị của thị trường, mà,
xuyên qua lý thuyết « sự tái ngã thuận lợi », đang ảo tưởng về những
khả năng hành động thực sự cho người nghèo (x. 52-64). Nếu Giáo Hội vẫn là khả
tín nơi nhiều nước trên thế giới, cả những nơi Giáo Hội là thiểu số, thì đó
chính là vì những công trình bác ái và liên đới của mình (65).
Đối với việc loan báo
Tin Mừng cho thời đại của chúng ta, đối diện với thách đố của « những nền
văn hóa đô thị » lớn, các Kitô hữu được mời gọi chạy trốn hai lối diễn tả
vốn phá hủy bản chất của nó mà Đức Thánh Cha Phanxicô gọi là « tính trần tục »
(93). Trước niên đó là « sự say mê thuyết ngộ đạo » : một đức
tin khép kín nơi chính mình, trên những xác tín giáo thuyết của mình và biến
kinh nghiệm mà người ta có thành những tiêu chí chân lý để phán xét người khác.
« Chủ thuyết tân-Pêlagiô tự quy chiếu và tin vào sức mình » của những
người mà đối với họ ân sủng chỉ là một thứ phụ tùy đang khi sự dấn thân và sức
mạnh của họ mới là hữu trách duy nhất của sự tiến bộ. Tất cả điều này mâu
thuẫn với việc loan báo Tin Mừng và tạo nên một thứ « chủ nghĩa tinh hoa
say mê bản thân » vốn cần phải bị đẩy lùi (94). Đức Thánh Cha tự
hỏi : chúng ta muốn là ai ? « Những vị tướng của đội quân bại
trận » hay là « những người lính đơn giản của một tiểu đoàn tiếp tục
chiến đấu » ? Thực sự có nguy cơ về một « Giáo Hội trần tục
khoác lên mình sự thiêng liêng và mục vụ » (96). Do đó chúng ta phải kháng
cự lại những cám dỗ này và mang lại chứng tá hiệp thông (99) vốn dựa trên sự bổ
túc. Khởi đi từ đó, Đức Thánh Cha Phanxicô đấu tranh để thăng tiến giáo dân và
phụ nữ, cổ võ sự dấn thân cho các ơn gọi và các linh mục. Nhìn những gì mà Giáo
Hội đã thực hiện như là sự tiến bộ trong những năm vừa qua làm cho chúng
ta xa rời với một não trạng quyền lực, nhằm phục vụ cho việc xây dựng Giáo Hội
hiệp nhất (102-108).
Công cuộc loan báo Tin
Mừng là sứ mạng của toàn Dân Thiên Chúa, không loại trừ ai. Nó không thể được
dành riêng hay được ủy thác cho một nhóm riêng biệt nào. Nó liên quan trực tiếp
đến mọi tín hữu. Trongchương thứ ba của Tông huấn, Đức
Thánh Cha Phanxicô giải thích sự phát triển và những giai đoạn của nó. Trước
tiên ngài làm nổi bật « tính tối thượng của ân sủng » vốn hành động
liên lỉ trong đời sống của mọi người loan báo Tin Mừng (112). Rồi tiếp đến được
khai triển vai trò của các nền văn hóa khác nhau trong tiến trình hội nhập văn
hóa của Tin Mừng, và mối nguy hiểm rơi vào « thần thánh hóa cách cao ngạo
nền văn hóa của riêng mình » (117). Tiếp nữa, ngài nói về vai trò căn bản
của sự gặp gỡ cá nhân (127-129) và chứng tá đời sống (121). Sau cùng ngài nhấn
mạnh đến giá trị của lòng đạo đức bình dân, trong đó được diễn tả đức tin đích
thực của bao con người vốn mang lại chứng tá về sự đơn sơ gặp gỡ với Thiên Chúa
tình yêu (122-126). Để kết thúc, Đức Thánh Cha mời gọi các thần học gia nêu bật
giá trị của các hình thức loan báo Tin Mừng khác nhau (133) và dừng lại khá lâu
trên bài giảng như là hình thức ưu tiên của việc loan báo Tin Mừng, và yêu cầu
một sự say mê đích thực và một tình yêu đích thực đối với Lời Chúa và dân chúng
được giao phó cho chúng ta (135-158).
Chương thứ tư dành bàn về chiều kích xã hội của việc loan báo Tin Mừng. Đó là một
đề tài rất thân thiết của Đức Thánh Cha Phanxicô bởi vì « nếu chiều kích
này không được lưu tâm cách rõ ràng, thì chúng ta có nguy cơ bóp méo ý nghĩa
đích thực và toàn vẹn của sứ mạng loan báo Tin Mừng » (176). Đó là đề tài
lớn về mối liên hệ giữa việc loan báo Tin Mừng và việc thăng tiến đời sống con
người trong tất cả các biểu hiện của nó. Việc thăng tiến toàn diện mọi người
đòi hỏi chúng ta không được khép kín tôn giáo thành một sự kiện riêng tư, thiếu
đi các hệ quả trên đời sống xã hội và công cộng. Một « đức tin đích thực
luôn bao hàm một ước muốn sâu xa thay đổi thế giới (183). Hai chủ đề lớn làm
nên đoạn này của Tông huấn. Đức Thánh Cha nói đến chúng với một sự say mê Tin
Mừng lớn lao, ý thức rằng tương lai của nhân loại đang nhập cuộc :
« việc hội nhập người nghèo vào xã hội » và « hòa bình và đối
thoại xã hội ».
Về điểm đầu tiên, Giáo
Hội, xuyên qua việc tân Phúc Âm hóa, cảm thấy là của mình sứ mạng « cộng
tác để giải quyết các nguyên nhân dụng cụ của sự nghèo đói và để thăng tiến sự
phát triển toàn diện người nghèo », như thực hiện « các cử chỉ liên
đới đơn sơ và thường ngày trước sự khốn khổ cụ thể « vốn mỗi ngày trước
mắt chúng ta » (188). Những gì liên quan đến những trang cô đọng này, đó
là lời mời gọi nhận ra « sức mạnh cứu độ » của người nghèo, và phải
nằm ở trung tâm của đời sống của Giáo Hội với công cuộc tân Phúc Âm hóa (198).
Do đó, trước tiên chúng ta cần phải tái khám phá mối quan tâm, sự cấp bách, ý
thức về chủ đề này, trước mọi kinh nghiệm cụ thể. Đối với Đức Thánh Cha
Phanxicô, không chỉ chọn lựa căn bản dành cho người nghèo phải được thực hiện,
nhưng trước tiên nó là một « sự quan tâm tinh thần » và « tôn
giáo » và do đó là ưu tiên (200). Về những chủ đề này, lời của Đức Thánh
Cha Phanxicô là thẳng thắn và rõ ràng. Một « Mục tử của một Giáo Hội không
biên giới » (210) không thể tự cho phép mình nhìn nơi khác. Vì thế ngài
mạnh mẽ yêu cầu xem xét vấn đề người di dân và nói lên cách rõ ràng những hình
thức nô lệ mới. « Ở đâu có người mỗi ngày giết chết trong xưởng lậu của
mình, trong hệ thống mãi dâm, các trẻ em được sử dụng để ăn xin, nơi người phải
làm việc ẩn núp bởi vì người ấy không được hợp thức hóa ? Chúng ta đừng ru
ngủ họ. Có nhiều sự đồng lõa » (211). Bằng nhiều cách, Đức Thánh Cha bảo
vệ sự sống con người từ khi khởi đầu của nó và phẩm giá của mọi người (213). Về
khía cạnh thứ hai, Đức Thánh Cha trình bày bốn nguyên tắc vốn là mẫu số chung
cho việc xúc tiến hòa bình và việc thể hiện nó trong xã hội. Có lẽ để nhớ đến
những nghiên cứu của R. Guardini, Đức Thánh Cha Phanxicô dường như tạo nên một
cực đối lập mới. Quả thế, ngài nhắc nhớ rằng « thời gian thì trổi vượt
không gian », « sự hiệp nhất thì hơn sự xung đột », « thực
tại thì quan trọng hơn các ý tưởng, và « tổng thể thì lớn hơn các bộ
phận ». Điều này dẫn chúng ta đến việc đối thoại như là đóng góp đầu tiên
cho hòa bình, và, trong Tông huấn, vốn liên quan đến khoa học, đối thoại đại
kết và tương quan với các tôn giáo không Kitô.
Chương cuối cùng bàn về « tinh thần tân Phúc Âm hóa » (260). Nó được khai
triển dưới tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng đánh động cách luôn mới mẻ nhiệt
huyết truyền giáo từ đời sống cầu nguyện trong đó việc chiêm niệm chiếm vị trí
trung tâm (264).
Trong phần kết luận, Đức Trinh Nữ Maria, « Ngôi sao của công
cuộc tân Phúc Âm hóa », được trình bày như là hình ảnh của việc loan báo
và truyền bá Tin Mừng mà Giáo Hội được mời gọi sống cách nhiệt huyết và trong
tình yêu của Chúa Giêsu. « Chúng ta để để mình bị đánh cắp niềm vui loan
báo Tin Mừng ! ». Ngôn ngữ của Tông huấn này là rõ ràng và thẳng
thắn, không khoa trương cũng như ẩn ý. Đức Thánh Cha Phanxicô đi vào trọng tâm
của các vấn đề của con người hôm nay, vốn đòi hỏi Giáo Hội còn hơn chỉ là một
sự hiện diện. Giáo Hội được yêu cầu đổi mới các chương trình và thực hành mục
vụ của mình theo hướng tân Phúc Âm hóa. Tin Mừng phải được nói với mọi người,
không loại trừ ai. Thế nhưng, một số người cần ưu tiên. Không mập mờ, Đức Thánh
Cha Phanxicô nêu rõ định hướng của ngài : « Đó không phải là các bạn
bè lẫn những người giàu bên cạnh, nhưng là những người nghèo, những người đau
ốm, những người bị coi thường và quên lãng… Không có sự nghi ngờ hay lối giải
thích nào được làm yếu đi sứ điệp rất rõ ràng này » (48).
Như những thời điểm
quan trọng khác trong lịch sử của mình, Giáo Hội ngày nay cảm thấy nhu cầu về
một cái nhìn chú tâm để loan báo Tin Mừng dưới ánh sáng của việc thờ lạy, với
« cái nhìn chiêm niệm » này để thấy các dấu chỉ của sự hiện diện của
Thiên Chúa. Những dấu chỉ thời đại không chỉ được khích lệ, nhưng chúng trở nên
những tiêu chí của một chứng tá hữu hiệu (71). Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc cho
chúng ta mầu nhiệm trọng tâm của đức tin của chúng ta : « Chúng ta
đừng xa rời sự phục sinh của Chúa Giêsu, đừng bao giờ làm cho người
khác nhìn chúng ta là những kẻ chiến bại, những gì sẽ đến là sẽ đến » (3).
Giáo Hội của Đức Thánh Cha Phanxicô trở nên người bạn đường của những người thời
đại chúng ta đang tìm kiếm Thiên Chúa và ước mong thấy Ngài.
Tý Linh chuyển ngữ
Nguồn: Vatican.va