“Đừng bao giờ sợ sự dịu dàng” – báo La Stampa phỏng vấn
ĐGH Phanxicô
(dongten.net) 19&
Trong một cuộc phỏng vấn độc quyền dành cho báo La Stampa, Đức
Giáo Hoàng Phanxicô đã nói về ý nghĩa của Giáng Sinh, tình trạng đói
nghèo trên thế giới, các trẻ em chịu đau khổ, công cuộc cải cách Giáo triều Rôma, phong hồng y cho phụ nữ, Viện các công trình tôn giáo và chuyến tông du Thánh Địa sắp tới.
“Đừng bao giờ sợ sự dịu dàng”
“Đối với tôi Giáng Sinh là niềm hy vọng và sự dịu dàng…”. Đức Giáo
Hoàng Phanxicô đã nói như thế với báo “La Stampa” và “Vatican
Insider” về mùa Giáng Sinh đầu tiên của ngài trong tư cách là Giám mục Rôma. Chúng tôi đến nhà khách
thánh Marta thuộc nội thành Vatican vào lúc 12 giờ 50 phút chiều thứ ba ngày 10 tháng 12. Đức Giáo
Hoàng tiếp kiến chúng tôi trong 1 căn phòng gần với phòng ăn. Cuộc gặp gỡ kéo dài 1 giờ 30 phút.
Có hai khoảnh khắc trong cuộc phỏng vấn, nét mặt thanh thản, bình an vốn đã trở nên thân quen với toàn thể thế giới của Đức Giáo Hoàng Phanxicô bỗng biến mất khi ngài nói về những đau khổ của các trẻ em và thảm kịch của sự đói nghèo trên thế giới.
Suốt cuộc phỏng vấn, Đức Giáo Hoàng cũng nói về tương quan với các nhóm Kitô khác và
về “nền đại kết bằng máu” vốn đã hiệp nhất các Kitô hữu với nhau trong sự bách hại; về vấn đề gia đình vốn sẽ được thảo luận tại Thượng Hội đồng Giám mục sắp tới; về những chỉ trích ngài tại Hoa Kỳ và việc gán ngài là “một người Marxist”; cũng như thảo luận về tương quan giữa Giáo Hội và chính trị.
Giáng Sinh có ý nghĩa gì đối với ngài thưa Đức Thánh Cha?
“Giáng Sinh là một cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu. Thiên Chúa luôn
luôn tìm kiếm dân Ngài, dẫn dắt họ, chăm sóc họ và hứa luôn luôn ở gần họ. Sách Đệ Nhị Luật cho thấy rằng Thiên Chúa đồng hành cùng với chúng ta; Ngài nắm tay và dắt chúng ta đi giống như một người cha nắm tay và dắt con của mình. Đây quả là một điều thật thật dễ thương. Giáng Sinh là cuộc hội ngộ giữa Thiên Chúa với dân của Ngài. Nó cũng là một niềm an ủi, một mầu nhiệm đầy an ủi. Rất nhiều lần sau Thánh Lễ đêm Giáng Sinh, tôi đã dành một giờ hay gần như thế để ở một mình trong nhà nguyện trước khi cử hành Thánh Lễ Rạng đông. Tôi cảm nghiệm được một sự bình an và an ủi sâu xa. Tôi nhớ về một đêm cầu nguyện sau Thánh Lễ ở Trung tâm Astalli dành cho người di dân ở Rôma, đó là Giáng Sinh năm
1974, tôi nghĩ thế. Đối với tôi, Giáng Sinh luôn là dịp để chiêm ngắm cuộc viếng thăm của Thiên Chúa đối với dân của Ngài.
Giáng Sinh nói với con người thời nay điều gì thưa Đức Thánh Cha?
“Giáng Sinh nói về sự dịu dàng và hy vọng. Khi Thiên Chúa gặp gỡ chúng ta Ngài muốn nói với chúng ta 2 điều. Điều thứ nhất ngài muốn nói, đó là hãy hy vọng. Thiên Chúa luôn mở rộng cánh cửa, Ngài không bao giờ nỡ đóng lại. Ngài là người cha luôn mở rộng cửa cho chúng ta. Điều thứ hai Ngài muốn nói, đó là đừng sợ sự dịu dàng. Khi các Kitô hữu quên đi niềm hy vọng và sự dịu dàng họ sẽ trở thành một Giáo Hội lạnh lẽo, mất định hướng và bị giam hãm bởi những ý thức hệ và tinh thần thế gian. Trong khi đó sự giản dị của Thiên Chúa nói với chúng ta rằng: hãy tiến về phía trước, Ta là một người Cha luôn ấp ủ và che chở con. Tôi rất sợ khi các Kitô hữu đánh mất niềm hy vọng, khả năng ôm ấp và mở rộng tình yêu dịu dàng đối với người khác. Có lẽ đó là lý do tại sao khi hướng nhìn về tương lai, tôi thường nói về trẻ em và người cao niên, về những người không có khả năng tự bảo vệ minh. Suốt đời linh mục, khi thăm viếng giáo xứ, tôi luôn luôn tìm cách thong truyền sự dịu dàng, cách đặc biệt là với trẻ em và người cao tuổi. Điều này làm tôi cảm thấy vui và nó nhắc tôi nghĩ đến sự dịu dàng mà Thiên Chúa dành cho chúng ta”.
Làm sao có thể tin rằng Thiên Chúa, Đấng được các tôn giáo xem là vô hạn và toàn năng lại có thể làm cho mình trở nên mọn hèn?
“Các Giáo phụ Hy Lạp gọi đó là sự tự hủy của Thiên Chúa nghĩa là Thiên
Chúa xuống để ở với chúng ta. Đó là một trong những mầu nhiệm của Thiên Chúa. Trở lại năm 2000, tại Bêlem, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói rằng Thiên
Chúa đã trở nên một trẻ thơ hoàn toàn phụ thuộc vào sự chăm sóc của một người cha và một người mẹ. Đó là tại sao Giáng Sinh mang lại cho chúng ta nhiều niềm vui. Chúng ta không cảm thấy cô đơn nữa; Thiên Chúa xuống và ở lại với chúng ta. Chúa Giêsu đã trở thành người như chúng ta và chịu chết đau thương vì chúng ta như là một tử tội trên thập giá”.
Giáng Sinh thường được kể như là một câu chuyện thần tiên bọc đường. Nhưng Thiên Chúa được sinh ra trong một thế giới đầy đau khổ và bất hạnh
“Sứ điệp được loan báo cho chúng ta trong các sách Tin Mừng là sứ điệp của niềm vui mừng. Các tác giả Tin Mừng đã miêu tả lại một biến cố đầy niềm vui cho chúng ta. Họ không bàn
về thế giới bất công và về cách thức nào Thiên Chúa có thể được sinh ra trong một thế giới như thế. Mọi sự điều là hoa trái từ việc chiêm niệm của chính chúng ta: người nghèo, hài nhi sinh ra trong cảnh huống đầy bấp bênh. Giáng Sinh tiên vàn không phải là một cuộc kết án sự bất công và đói nghèo trong xã hội nhưng là loan báo về niềm vui. Những điều khác đều là những kết luận do chúng ta đưa ra. Có số thì đúng, số khác thì chưa đúng lắm và số khác nữa thì bị ý thức hệ hóa. Giáng Sinh là vui mừng, niềm vui mang tính tôn giáo, niềm vui của Thiên Chúa, một niềm vui nội tâm của ánh sáng và bình an. Khi người ta không thể hoặc trong một cảnh huống nào đó không cho phép họ cảm nếm niềm vui này thì họ sẽ trải nghiệm lễ Giáng Sinh bằng niềm vui mang tính thế gian. Thế nên có một sự khác biệt giữa niềm vui sâu xa và niềm vui thế gian”.
Đây là Giáng Sinh đầu tiên của ngài trong một thế giới đầy xung đột và chiến tranh…
“Thiên Chúa không bao giờ trao quà
cho người nào không có khả năng lãnh nhận. Nếu ngài ban cho chúng ta món quà
Giáng Sinh chính là bởi tất cả chúng ta đều có khả năng hiểu và lãnh nhận nó. Tất cả chúng ta, từ những người thánh thiện nhất như các thánh đến những người tội lỗi nhất; từ những người trong sạch nhất đến những người tham nhũng nhất giữa chúng ta. Ngay cả một người tham nhũng cũng có khả năng này:
có lẽ bị hen gỉ một chút nhưng họ có khả năng này. Giáng Sinh trong thời xung đột này là một lời mời gọi từ Thiên Chúa, Đấng ban tặng cho ta món quà này. Liệu chúng ta có muốn tiếp đón Ngài hay chúng ta thích thú với những món quà khác? Trong một thế giới bị xâu xé bởi chiến tranh, Giáng Sinh khiến tôi nghĩ đến lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa. Kinh Thánh minh
nhiên cho thấy rằng đức hạnh chính yếu của Thiên Chúa là tình yêu. Ngài đợi chờ chúng ta; ngài chẳng bao giờ cảm thấy mệt mỏi khi đợi chờ chúng ta. Ngài tặng quà cho chúng ta và sau đó
là đợi chờ chúng ta.
Điều này xáy ra trong đời mỗi người và mọi người chúng ta. Dẫu rằng có những người phớt lờ Ngài nhưng Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn và sự an lành của Đêm Vọng Giáng Sinh là một phản chiếu về lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa đối với chúng ta.
Tháng Giêng tới đây đánh
dấu kỷ niệm 50 năm chuyến thăm lịch sử của Đức Phaolô VI đến Thánh Địa, ngài sẽ tới đó chứ?
“Giáng Sinh luôn gợi nhắc chúng ta nhớ về Bêlem, địa điểm chính xác nhất tại Thánh Địa mà Chúa Giêsu đã từng sinh sống. Vào đêm Giáng Sinh, trước hết tôi nghĩ đến các Kitô hữu đang sống ở đó, những người đang phải sống trong cảnh khó khăn và những người phải rời bỏ mảnh đất của mình vì những vấn đề khác nhau. Nhưng Bêlem vẫn là Bêlem. Thiên Chúa đã giáng
trần vào một thời điểm cụ thể tại một nơi chốn cụ thể. Đó là nơi sự dịu dàng và ân sủng của Thiên Chúa đã xuất hiện. Chúng ta không thể nghĩ về Giáng Sinh mà không nghĩ đến Thánh Địa. Cách đây 50 năm, Đức Giáo
Hoàng Phaolô VI đã can đảm ra đi và đến đó. Điều này đánh dấu sự bắt đầu của những cuộc tông du của giáo hoàng. Tôi cũng muốn được đến đó để gặp người anh em của tôi, Đức Thượng Phụ Bartholomew, Thượng phụ Constantinople và cùng kỷ niệm 50 năm chuyến thăm của Đức Phaolô VI với ngài cũng như để làm mới lại cái ôm hôn đã diễn ra giữa Đức Giáo Hoàng Montini và Đức Thượng Phụ Athenagora tại Giêrusalem năm 1964. Chúng tôi đang chuẩn bị cho điều này”.
Ngài đã nhiều lần thăm và gặp gỡ các trẻ em bị bệnh nặng. Ngài muốn nói gì về những trẻ thơ phải chịu đau khổ không?
Văn sĩ Dostoevskij người mà tôi
xem như là một cố vấn cuộc đời cho mình và câu hỏi vừa minh nhiên lẫn mặc nhiên của ông “Tại sao trẻ em đau khỏ?” luôn là điểu luẩn quẩn trong trái tim tôi. Không có lời giải thích. Có hình ảnh này thường đến trong tâm trí tôi: đó là hình
ảnh của một em nhỏ đột nhiên “thức giấc” trong một lúc đặc biệt nào đó, em không hiểu gì nhiều và cảm thấy bị đe dọa. Em bắt đầu hỏi bố mẹ nhiều câu hỏi. Đây là tuổi của những câu hỏi “tại sao”. Những khi trẻ em đặt câu hỏi, các em không chờ để nghe hết trọn vẹn câu trả lời, các em lập tức đưa ra hàng loạt “những tại sao” khác. Điều mà các em thật sự muốn tìm không phải là sự giải thích mà là tìm kiếm một sự an tâm nào đó từ nét mặt của bố mẹ. Khi tôi thăm một trẻ em đau khổ, lời nguyện duy nhất đến trong tâm trí tôi là lời nguyện “tại sao”. Tại sao vậy Chúa ơi? Ngài không giải thích gì cho tôi cả. Nhưng tôi có thể cảm thấy Ngài đang nhìn tôi. Vì thế tôi thưa với Ngài rằng: Chúa biết tại sao, còn con thì không biết, Chúa sẽ không nói cho con nhưng Chúa đang nhìn con và con tín thác vào Chúa, lạy Chúa con tín thác vào cái nhìn của Chúa”.
Khi nói về đau khổ của các trẻ em, chúng ta không thể quên thảm kịch của những người đang đau khổ vì đói khát
“Với tất cả những thức ăn dư thừa và bị vứt đi chúng ta có thể nuôi sống rất nhiều người. Nếu chúng ta có thể chấm dứt sự lãng phí và bắt đầu tái chế biến thực phẩm, nạn đói trên thế giới sẽ giảm đi đáng kể. Tôi thảng thốt khi nghe thống kế rằng 10.000 trẻ em chết đói mỗi ngày trên khắp thế giới. Có quá nhiều trẻ em đang kêu khóc vì đói. Trong
cuộc Tiếp kiến Chung thứ tư trước đây, tôi thấy một phụ nữ trẻ đứng sau hàng rào chắn, tay bồng một em bé chỉ mới vài tháng tuổi. Đứa bé kêu khóc thảm thiết khi tôi đi qua. Người mẹ dỗ dành nó. Tôi nói với người mẹ rằng: này chị, tôi nghĩ rằng đứa trẻ đang đói. “Vâng có lẽ đã đến giờ…” bà mẹ trả lời. “Xin chị hãy cho cháu ăn chút gì đó!”
tôi nói. Bà mẹ tỏ vẻ ngượng ngùng và không muốn cho con
bú giữa chốn công cộng, khi Đức Giáo hoàng đi qua. Tôi cũng muốn nói với nhân loại như thế: hãy cho người ta chút gì đó để họ ăn! Người phụ nữ có sữa để cho con của mình; chúng ta có đủ thức ăn trên thế giới để nuôi sống mọi người. Nếu chúng ta cộng tác với các tổ chức nhân đạo và có thể nhất trí với nhau đừng lãng phí thức ăn, nhưng gửi nó tới những ai đang cần, chúng ta có thể làm nhiều điều để giúp giải quyết vấn đề nạn đói trên thế giới. Tôi muốn nhắc lại với nhân loại cùng một điều tôi đã nói với bà mẹ rằng: hãy san sẻ thức ăn cho những ai đang đói khát! Ước gì niềm hy vọng và sự dịu dàng của ngày Chúa Giáng Sinh xua đi sự dửng dưng nơi chúng ta”.
Có một vài đoạn trong Tông huấn “Niềm vui Phúc Âm” bị những người bảo thủ cực đoan ở Mỹ chỉ trích. Là một vị Giáo hoàng, ngài cảm thấy gì khi bị gọi là một “người Marxist”?
“Ý thức hệ Marxist là sai lầm. Nhưng tôi đã gặp nhiều người Marxist trong đời và họ là những người tốt. Thế nên, tôi không cảm thấy bị xúc phạm gì cả”.
Phần gây ấn tượng nhất của Tông huấn chính là chỗ nó đề cập đến một nền kinh tế “giết người”…
“Không có điều gì trong bản Tông huấn mà lại không thể được tìm thấy trong Học thuyết xã hội của Giáo Hội. Tôi không nói theo quan điểm mang tính
kỹ thuật, nhưng những gì tôi đang cố gắng làm đó là đưa ra một bức tranh về những gì đang diễn ra. Trích dẫn đặc trưng duy nhất mà tôi đã sử dụng là về “các lý thuyết nhỏ giọt” vốn giả thiết rằng tăng trưởng kinh tế, được khuyến khích bởi thị trường tự do, sẽ chắc chắn thành công trong việc mang lại sự toàn diện của công bình và xã hội lớn hơn trên thế giới. Với lời hứa rằng khi ly đã đầy, nước sẽ tràn ra và mang lại lợi ích cho người nghèo. Thế nhưng thay vì xảy ra như thế, khi cái ly đầy nước, nó lại càng trở nên to hơn như ảo thuật và chẳng có gì đến được với người nghèo. Đây là tham chiếu duy về lý thuyết chuyên biệt này. Tôi
xin nhắc lại, tôi không nói theo quan điểm kỹ thuật nhưng theo học thuyết xã hội của Giáo Hội. Thế nên, nói điều này không có nghĩa là trở thành một người Marxist”.
Ngài đã công bố về một “cuộc canh tân quyền giáo
hoàng” (conversion of the papacy) . Có một lộ trình cụ thể nào được đưa ra từ những cuộc họp giữa ngài với các vị Thượng Phụ Chính Thống Giáo hay không?
“Đức Gioan Phaolô II thậm chí đã nói một cách dứt khoát về một đường hướng thực thi quyền tối thượng cách cởi mở trong cảnh huống mới. Không phải chỉ từ quan điểm liên quan đến quan hệ đại kết mà còn cả quan hệ với Giáo Triều và các Giáo Hội địa phương. Trong suốt 9 tháng đầu tiên (đảm nhận sứ vụ thánh Phêrô), tôi đã tiếp kiến nhiều anh em Chính Thống Giáo như: Đức Thượng phụ Bartholomew, Đức Thượng phụ Hilarion, thần học gia Zizioulas, Đức Thượng phụ giáo chủ Giáo hội Coptic Tawadros. Vị sau cùng là một nhà huyền nhiệm, ngài đã cởi giày và đi vào nhà nguyện để cầu nguyện. Tôi cảm thấy như là anh em của họ. Họ cũng kế thừa truyền thống tông đồ nên tôi đã tiếp đón họ như những giám mục anh em. Thật đau lòng khi chúng tôi chưa thể cử hành Thánh Lễ với nhau nhưng chúng tôi có tình bằng hữu. Tôi tin rằng lộ trình phía trước đó là: tình bạn, làm việc chung và cầu nguyện cho sự hiệp nhất. Chúng tôi chúc lành cho
nhau; người anh em này chúc lành cho người anh em khác, một người anh em thì được gọi là Phêrô và người khác là Anrê, Máccô, Tôma…”
Hiệp nhất các Kitô hữu là một ưu tiên của ngài?
“Vâng, đối với tôi đại kết là một ưu tiên. Ngày nay có một thứ đại kết bằng máu. Tại một vài quốc gia, người ta sát hại các Kitô hữu vì họ đeo thánh giá hay có một cuốn Kinh Thánh và trước khi ra tay sát hại, người ta không hề hỏi họ là người Anh Giáo, Tin Lành, Công Giáo hay Chính Thống Giáo. Máu của họ đã hòa lẫn với nhau. Đối với những kẻ giết người đó, chúng tôi là những Kitô hữu. Chúng tôi hiệp nhất bằng máu, ngay cả khi chúng tôi chưa thu xếp những bước đi cần thiết hướng tới sự hiệp nhất và có lẽ do thời gian chưa tới. Hiệp nhất là một ơn mà chúng tôi cần phải cầu xin. Tôi biết một linh mục coi xứ ở Hamburg vốn phụ trách án xin phong thánh cho một linh mục Công Giáo bị Đức Quốc xã chém đầu vì dạy giáo lý cho trẻ em. Theo sau vị này, trong danh sách những cá nhân
bị kết án có một mục sư Tin Lành cũng bị giết vì cùng một lý do. Máu của họ đã hòa lẫn với nhau. Linh mục đó nói với tôi rằng ngài đã đi gặp Đức Giám mục và nói với ngài rằng: “Con sẽ tiếp tục xúc tiến án phong thánh, nhưng cả hai án phong thánh chứ không chỉ riêng cho án của linh mục Công Giáo”. Đây chính là đại kết bằng máu. Điều này vẫn còn tồn tại ngày hôm nay; khi đọc báo anh sẽ thấy. Những kẻ sát hại các Kitô hữu không hề hỏi căn tính của bạn để biết bạn được rửa tội theo Giáo Hội nào. Chúng ta cần suy nghĩ về những sự kiện này”.
Trong bản Tông huấn, ngài đã kêu gọi những lựa chọn mục vụ mang tính cẩn trọng (prudence) và can đảm liên quan đến các Bí
tích. Ngài muốn ám chỉ điều gì?
“Khi tôi nói về sự cẩn trọng, tôi không nghĩ về nó như là một thái độ cố hữu nhưng như một nhân đức của một người lãnh đạo. Cẩn trọng là một nhân đức trong việc quản trị. Thế nên nó cũng là can đảm. Người ta phải quản trị bằng sự can đảm và cẩn trọng. Tôi đã đề cập đến bí tích Rửa tội và Thánh Thể như là những lương thực tinh thần giúp cho người ta tiến tới; nó phải được xem như là một phương dược để chữa lành chứ không phải là một phần thưởng. Một số người ngay lập tức nghĩ về các bí tích cho những người ly dị tái hôn, nhưng tôi đã không ám chỉ bất cứ trường hợp cụ thể nào. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh một nguyên tắc. Chúng ta phải cố gắng tạo điều kiện thuận lời cho đức tin của người ta hơn là kiểm soát đức tin đó. Năm ngoái khi còn ở Argentina, tôi đã phê phán thái độ của một số linh mục khi họ không chịu rửa tội cho con của những bà mẹ không kết hôn. Đây quả là một não trạng bệnh hoạn”.
Còn về những người ly dị tái hôn thì sao?
“Việc không cho những người ly dị đã tái hôn không được phép rước lễ không phải là một hình phạt. Quan trọng là phải nhớ như thế. Nhưng tôi đã không đề cập đến điều này trong Tông huấn”.
Vấn đề này sẽ được bàn thảo tại Thượng Hội Đồng Giám mục sắp tới chứ?
“Tính công nghị của Giáo Hội rất quan trọng: chúng tôi sẽ thảo luận về hôn nhân trong hội nghị hồng y vào tháng 2. Vấn đề cũng sẽ được đề cập tại Thượng Hội Đồng Giám mục ngoại thường tháng 10 năm 2014 và tiếp tục tại Thượng Hội Đồng Giám mục thông thường năm sau. Nhiều yếu tố sẽ được đánh giá kĩ lưỡng và rõ ràng trong những cuộc họp này”.
Công việc của tám “cố vấn” của ngài trong việc cải cách Giáo Triều đang diễn ra thế nào?
“Có nhiều việc phải làm. Những ai muốn đề xuất và đưa ra ý kiến đã làm như thế. Đức Hồng y Bertello đã tập hợp các ý kiến từ các phòng ban của Vatican. Chúng tôi đã nhận được nhiều góp ý từ các giám mục khắp thế giới. Tại phiên họp gần đây nhất, tám hồng y đã cho tôi biết về thời gian dành cho các đề xuất cụ thể và trong cuộc họp tháng 2 tới họ sẽ trình bày cho tôi các góp ý của họ. Tôi luôn luôn hiện diện trong các cuộc họp trừ những buổi sáng thứ tư vì tôi có buổi tiếp kiến chung. Nhưng tôi không phát biểu gì cả, tôi chỉ lắng nghe và điều này tốt cho tôi. Cách đây một vài tháng, một vị hồng y lớn tuổi đã nói với rôi rằng: “Đức Thánh Cha đã bắt đầu cải cách Giáo Triều bằng những Thánh Lễ hằng ngày tại Nhà thánh Martha”.
Điều này khiến tôi nghĩ rằng: cải cách phải luôn bắt đầu với những sáng kiến thiêng liêng và mục vụ trước những thay đổi về cơ cấu.
Đâu là mối tương quan phải lẽ giữa Giáo Hội và chính trị?
“Mối tương quan này cần đồng thời mang tính song song và hội tụ. Song song là bởi mỗi người chúng ta có con đường và phận vụ riêng của mình. Hội tụ chỉ là để giúp đỡ lẫn người khác. Khi mối tương quan hội tụ trước mà không có con người hay không quan tâm đến con người, đó là khi liên kết quyền lực chính trị hình thành, dẫn Giáo Hội đến chỗ thối nát, kinh doanh, thỏa hiệp… Mối tương quan này cần phải đi theo một lối song song, mỗi bên có phương pháp, phận vụ và ơn gọi riêng, chỉ hội tụ trong ích chung mà thôi. Chính
trị là điều đáng quý; nó là một trong những hình thức cao nhất của đức ái như Đức Phaolô VI đã từng nói. Chúng ta sẽ làm hoen ố nó khi chúng ta trộn lẫn nó với việc kinh doanh. Tương quan giữa Giáo Hội và quyền lực chính trị cũng có thể bị thoái hóa nếu ích chung không phải là điểm hội tụ”.
Tôi có thể hỏi ngài liệu Giáo Hội sẽ có các nữ hồng y trong tương lai chứ?
“Tôi không biết cái ý tưởng này từ đâu nảy ra. Người nữ trong Giáo Hội phải được trân trọng chứ không phải “giáo sĩ hóa” (clericalised). Bất cứ người nào nghĩ rằng phụ nữ làm hồng y thì vẫn còn chút gì đó giáo sĩ trị”.
Quá trình làm sạch Viện các Công trình Tôn giáo (IOR) diễn ra thế nào?
“Các ủy ban đang có sự tiến triển tốt. Moneyval đã cho chúng tôi một báo cáo tích cực và chúng tôi đang đi đúng hướng. Về tương lai của IOR, chúng ta sẽ thấy. . Chẳng hạn, “Ngân hàng trung ương” Vatican sẽ là APSA (Văn phòng quản trị tài sản Tông Tòa). IOR trước đây được thiết lập để giúp đỡ cho các công trình tôn giáo,
việc truyền giáo và các giáo hội nghèo. Nhưng sau đó, nó đã trở thành những gì như ta thấy bây giờ.
“Cách đây 1 năm, ngài có tưởng tượng ngài sẽ cử hành lễ Giáng Sinh năm 2013 tại Quảng trường thánh Phêrô không?”
“Tuyệt đối không”.
“Ngài có mong mình được bầu không?
“Không, tôi không hề mong mình được bầu. Tôi chưa bao giờ mất bình an khi thấy số phiếu bầu cho mình đang tăng lên. Tôi vẫn cảm thấy bình tĩnh. Và sự bình an vẫn còn đó và tôi xem đó là một ơn ban của Chúa. Khi việc kiểm phiếu chấm dứt, tôi được mời đứng giữa nhà nguyện Sistine và được hỏi rằng tôi có chấp nhận không. Tôi đã nói chấp nhận và tôi đã chọn tông hiệu Phanxicô. Chỉ sau đó tôi mới rời khỏi. Tôi được mời tới căn phòng bên cạnh để thay y phục. Sau đó, trước khi xuất hiện trường công chúng, tôi đã quỳ cầu nguyện vài phút tại nhà nguyện Pauline cùng với Đức Hồng y Vallini và Hummes”.
Chuyển ngữ: Chỉnh Trần, S.J.