Buổi cầu nguyện đại kết tại Đền Thờ Mộ Thánh
vi.radiovaticana.va/2014-05-26 15:26:04 –
Trong cuộc viếng thăm 3
ngày tại Thánh Địa, chiều ngày 25-5-2014 ĐTC đã từ
Tiếp đến, vào lúc 7 giờ
tối, hai vị đến Đền Thờ Mộ Thánh để cử hành buổi cử hành đại kết với sự tham dự
của các đại diện Công Giáo, Chính Thống, Amérni, Tin Lành và Anh giáo, các vị
Tổng lãnh sự của 5 nước bảo đảm qui luật statu quo của Thánh Địa là Pháp, Bỉ,
Tây Ban Nha, Italia và Hy Lạp, cùng với đông đảo khách mời. Đây là lần đầu tiên
trong lịch sử, một buổi cầu nguyện đại kết được cử hành tại nơi an táng Chúa Cứu Thế.
Sau khi tiến vào Đền
thờ Mộ Thánh từ hai cửa khác nhau, ĐTC và Đức Thượng Phụ ôm chào nhau rồi hai
vị cùng tiến vào nơi cử hành buổi cầu nguyện giữa tiếng hát của ca đoàn Hy Lạp.
Sau lời chào mừng của
Đức Thượng Phụ Chính Thống Hy Lạp của thành Jerusalem, mọi người đã nghe đọc
hai đoạn Tin Mừng phục sinh bằng tiếng Hy Lạp (Ga 20,1-9) và La Tinh (Mt
28,1-10), và bài ngỏ lời của Đức Thượng Phụ Bartolomaios, đến lượt ĐTC lên
tiếng.
Diễn văn của ĐTC
Ngài nhắc đến cuộc gặp
gỡ lịch sử cách đây 50 năm giữa Đức Phaolô 6 và Đức Thượng Phụ Athenagoras,
đồng thời chào thăm và cám ơn các vị lãnh đạo Kitô hiện diện. ĐTC nói đến điểm
nòng cốt chung của tất cả các tín hữu Kitô, và khích
lệ mọi cố gắng tìm về hiệp nhất:
“Thật là một ân phúc đặc biệt được họp nhau cầu nguyện nơi đây. Ngôi mộ
trống, ngôi mộ mới ở trong vườn nơi mà Ông Giuse d'Arimatea đã kính cẩn an táng
xác Chúa Giêsu, là nơi từ đó đã xuất phát lời loan báo Phục Sinh: “Các bà đừng
sợ! Tôi biết các bà tìm Đức Giêsu chịu đóng đanh. Ngài không ở đây. Ngài đã sống lại như đã
nói trước. Vậy các bà hãy đến, hãy nhìn nơi Ngài đã được an táng. Mau lên hãy đi nói với các môn đệ: “Ngài đã sống
lại từ cõi chết” (Mt 28,5-7).
“Lời loan báo này, được
củng cố nhờ chứng tá của những người được Chúa Phục Sinh hiện ra, chính là
trọng tâm sứ điệp Kitô, được trung thành truyền lại từ đời này sang đời khác,
như ngay từ đầu thánh Phaolô Tông Đồ làm chứng (..1 Cr 15,3-4)...
Đó là nền tảng đức tin liên kết chúng ta, nhờ đó chúng ta cùng nhau tuyên xưng
rằng Chúa Giêsu Kitô, Con duy nhất của Chúa Cha và là Chúa duy nhất của chúng
ta, “đã chịu khổ nạn dưới thời Quan Phongxiô Philato, chịu đóng đanh, chịu chết
và mai táng; xuống ngục tổ tông; ngày thứ ba Người sống lại từ cõi chết” (Kinh
Tin Kính). Mỗi người chúng ta, mỗi tín hữu đã chịu phép rửa trong Chúa Kitô,
đều sống lại một cách thiêng liêng từ ngôi mộ này, vì trong phép rửa, tất cả
chúng ta thực sự được tháp nhập vào Vị Trưởng Tử của toàn thể công trình sáng
tạo, được mai táng với Ngài, để cùng Ngài được sống lại và có thể bước đi trong
một đời sống mới (Xc Rm 6,4).
“Chúng ta hãy đón nhận ân phúc đặc biệt trong lúc này. Chúng ta hãy sốt sắng mặc
niệm cạnh ngôi mộ trống, để tái khám phá ơn gọi Kitô cao cả của chúng ta: chúng
ta là những người của sự phục sinh, chứ không phải của sự chết. Từ nơi này,
chúng ta hãy học sống cuộc sống của chúng ta, những cơ cực của các Giáo Hội
chúng ta và toàn thế giới dưới ánh sáng buổi sáng Phục Sinh. Mỗi vết thương,
mỗi đau khổ, mỗi đớn đau, đều được chất trên vai của vị Mục Tử Nhân Lành, Ngài
đã hiến mạng sống mình và qua hy sinh của Ngài, Ngài đã mở đường dẫn đến đời
sống vĩnh cửu. Những vết thương mở rộng là những cánh cửa qua
đó dòng từ bi của Chúa đổ tràn trên thế giới. Chúng ta đừng để nền tảng
niềm hy vọng của chúng ta bị cướp mất! Chúng ta đừng để thế giới bị thiếu Tin
Mừng Phục Sinh! Và chúng ta đừng điếc trước tiếng gọi mạnh mẽ hiệp nhất vang
dội chính từ nơi này, qua những lời của Đấng Phục Sinh đã gọi tất cả chúng ta
là anh em của Ngài” (Xc Mt 28,10; Ga 20,17).
ĐTC nhận xét rằng “Chắc
chắn là chúng ta không thể phủ nhận những chia rẽ vẫn còn giữa chúng ta, là
những môn đệ của Chúa Giêsu: nơi thánh này càng làm cho chúng ta đau đớn cảm
thấy thảm trạng đó. Tuy nhiên, 50 năm sau vòng tay ôm
của hai Người Cha đáng kính của chúng ta, với lòng biết ơn và kinh ngạc, chúng
ta hãy nhìn nhận rằng do sự thúc đẩy của Chúa Thánh Linh, chúng ta có thể thực
hiện những bước tiến thật quan trọng tiến về hiệp nhất. Chúng ta ý thức rằng
còn phải tiến trên những con đường khác để đạt tới sự hiệp thông trọn vẹn, sự
hiệp thông có thể được biểu lộ qua sự chia sẻ cùng bàn tiệc Thánh Thể mà chúng
ta nồng nhiệt ao ước; nhưng những khác biệt không được làm cho chúng ta khiếp
sợ hoặc làm tê liệt hành trình của chúng ta. Chúng ta phải tin rằng cũng như có
thể lật ngược tảng đá chắn mộ, thì cũng có thể loại bỏ mọi chướng ngại vẫn còn
ngăn cản sự hiệp nhất trọn vẹn giữa chúng ta. Thật là một ân
thánh phục sinh mà chúng ta có thể nếm hưởng trước. Mỗi lần chúng ta xin lỗi
nhau vì những tội đã phạm đối với các tín hữu Kitô khác và mỗi lần chúng ta có
can đảm trao ban và nhận sự tha thứ ấy, chúng ta cảm nghiệm sự phục sinh! Mỗi
lần chúng ta khắc phục những thành kiến cũ, và có can đảm thăng tiến những quan
hệ huynh đệ mới, chúng ta tuyên xưng rằng Chúa Kitô thực sự sống lại! Mỗi lần
chúng ta suy nghĩ tương lai của Giáo Hội từ ơn gọi hiệp nhất của Hội Thánh, thì
ánh sáng của ban mai Phục Sinh bừng sáng! Về điểm này tôi muốn lập lại mong ước
đã được các vị tiền nhiệm của tôi bày tỏ, đó là duy trì một cuộc đối thoại với
tất cả mọi anh em trong Chúa Kitô để tìm ra một hình thức thực thi sứ vụ của
Giám Mục Roma, phù hợp với sứ mạng của mình, mở ra một tình trạng mới và có thể
trong bối cảnh hiện nay làmột sự phục vụ yêu thương và hiệp thông được tất cả
mọi người công nhận (Xc Gioan Phaolô 2, Thông điệp Ut unum sint, 95-96).
Tiếp tục bài diễn văn
tại buổi cầu nguyện đại kết ở Đền Thờ Mộ Thánh, ĐTC Phanxicô nói:
“Trong
khi chúng ta dừng lại tại nơi thánh này như những người hành hương, chúng ta
cũng nhớ đến trong kinh nguyện đến toàn vùng Trung Đông, vẫn còn bị bạo lực và xung
đột.
Và trong kinh nguyện, chúng ta không quên bao nhiêu người nam nữ, tại các nơi
khác trên thế giới, đang chịu đau khổ vì chiến tranh, nghèo đói; cũng như nhiều
tín hữu Kitô bị bách hại vì đức tin nơi Chúa Phục Sinh. Khi các tín hữu Kitô
thuộc các hệ phái khác nhau cùng chịu đau khổ, cạnh nhau, và trợ giúp nhau
trong tình bác ái huynh đệ, thì một phong trào đại kết đau khổ, đại kết bằng
máu được thực hiện và có hiệu năng đặc biệt không những trong bối cảnh các cuộc
bách hại ấy xảy ra, nhưng do sức mạnh của sự thông công giữa các thánh, cho
toàn thể Giáo Hội nữa.
“Kính thưa Đức Thượng
Phụ, người anh em yêu quí, toàn thể anh chị em quí mến, chúng ta hãy bỏ qua một
bên những do dự mà chúng ta thừa hưởng từ quá khứ, và cởi mở tâm hồn cho Thánh
Linh tác động, Thánh Thần Tình Thương (Xc Rm 5,5) và
Chân Lý (Xc Ga 16,13) để cùng nhau mau lẹ tiến bước hướng về ngày hồng phúc là
sự hiệp thông trọn vẹn được tái lập. Trong hành trình đó chúng ta được nâng đỡ
bằng lời cầu nguyện mà chính Chúa Giêsu, tại thành này, hôm áp ngày chịu khổ
nạn, chịu chết và sống lại, dâng lên Chúa Cha cho các môn đệ và chúng ta không
ngừng khiêm tốn nhắc lại như kinh nguyện của chúng ta: “Xin cho chúng được nên
một.. để thế gian tin” (Ga 17,21).
G. Trần Đức Anh OP