Phòng Tiệc Ly là nơi Giáo Hội khai sinh và từ đó chảy ra
con suối bác ái trở thành dòng sông lớn
vi.radiovaticana.va/2014-05-27 17:27:22 – Phòng Tiệc Ly là nơi Giáo Hội khai sinh
và từ đó chảy ra con suối bác ái trở thành dòng sông lớn. Nó nhắc nhớ hy lễ, việc
phục vụ, tình bạn, sự chia sẻ, tình huynh đệ,
sự hòa hợp và bình an. Từ Phòng Tiệc Ly Giáo Hội đã khởi hành với Bánh được bẻ ra giữa các bàn tay, với các
vết thương của Chúa Giêsu trong đôi mắt, và Chúa Thánh Thần tình yêu trong con
tim.
Đức Thánh Cha Phanxicô
đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ đồng tế với các Hồng Y, Thượng Phụ và
Giám Mục trong Phòng Tiệc Ly lúc 17 giờ 20 chiều thứ hai 26-5-2014. Đây cũng là Sinh hoạt cuối cùng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong
ngày thứ ba viếng thăm Thánh Địa.
Sau khi gặp các linh
mục tu sĩ nam nữ trong Vương cung thánh đường Giệtsêmani, Đức Thánh Cha đã
trồng một cây ô liu bên cạnh cây ô liu Đức Phaolô VI đã trồng cách đây 50 năm
trong vườn Cây Dầu. Tiếp đến ngài đã đi xe tới Phòng
Tiệc Ly nằm cách đó 2 cây số trong thành cổ Giêrusalem.
Phòng Tiệc Ly là chiếc
nôi của Giáo Hội khai sinh, nơi Chúa Giêsu Kitô đã thành lập chức Linh Mục, các
Bí tích Thánh Thể và Hòa Giải. Từ “Coenaculum” tiếng La tinh ám chỉ nơi dùng
bữa tối, nhưng nói chung nó ám chỉ tầng trên nơi tiếp
khách trong nhà. Sự xác thực của Phòng Tiệc Ly đã rất cổ xưa,
từ thế kỷ thứ III. Vào thế kỷ thứ IV có một nhà thờ
mới được xây gần Phòng Tiệc Ly gọi là nhà thờ “Thánh Sion”. Năm 614 nhà
thờ này bị người Hồi tàn phá, khi người Hồi xâm lăng
Thánh Địa. Nó được tái thiết rồi lại bị người Hồi phá hủy.
Khi Đạo Binh Thập Tự tới Thánh Địa, nhà thờ ở trong tình
trạng đổ nát, chỉ trừ nhà nguyện nguyện hai tầng của Phòng Tiệc Ly. Đạo
Binh Thập Tự Kitô đã xây một vương cung thánh đường ba gian dọc gồm “Phòng bên
trên, tức Nhà nguyện Tiệc Ly, “nơi Đức Maria ngủ” và một nhà nguyện bên dưới kỷ
niệm biến cố Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ.
Năm 1187 thành Giêrusalem
bị thất thủ và rơi vào tay Saladino. Người Hồi cho phép kitô hữu hành hương thăm viếng và các linh mục
có thể cử hành thánh lễ trong Phòng Tiệc Ly. Khi các tu sĩ Phanxicô tới
Thánh Địa năm 1335 vương cung thánh đường do Đạo binh Thập tự xây bị bỏ hoang
và hầu như bị tàn phá hoàn toàn. Sau nhiều thương thuyết dài
và khó khăn với Sultan Ai Cập và trả một số tiền rất lớn, vua Roberto của vương
quốc
Năm
1524 người Hồi chiếm các phòng bên dưới Phòng Tiệc Ly, vì cho đó là “Mộ của
ngôn sứ Đavít”. Tiếp đến đế quốc Ottoman ra sắc lệnh lấy lại cả Phòng Tiệc Ly ở
tầng trên, và buộc các tu sĩ Phanxicô phải bỏ cả tu viện bên cạnh. Phòng Tiệc Ly bị biến thành đền thờ Hồi giáo, và chính quyền hồi
cấm các kitô hữu lui tới nơi này.
Trong phòng bên dưới có
một mộ kỷ niệm không hài cốt gọi là “Mộ vua Đavít”, là đích điểm hành hương của
tín hữu Do thái có khuynh hướng quốc gia, cả khi thiếu nền tảng lịch sử và khảo
cổ liên quan tới mộ vua Đavít tại đây. Nhà nguyện phía trước, xưa kia là nhà nguyện ghi nhớ biến cố Chúa Giêsu rửa chân cho
các môn đệ, biến thành hội đường do thái.
Nhà nguyện Tiệc Ly bên
trên dài 15,3 mét rộng 9,4 mét được tái thiết theo kiểu Gôtích hồi thế kỷ XIV,
có một cầu thang nối liền tầng dưới với tầng trên gồm 8 bậc dẫn lên nhà nguyện
kỷ niệm biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống. Người ta cũng
thấy cái “Mihrab” xây năm 1929, khi nhà nguyện bị biến thành đền thờ Hồi giáo,
chỉ cho tín hữu Hồi giáo thấy hướng thành phố La Mecca. Đức Phaolô VI đã
cầu nguyuện tại đây ngày mùng 5 tháng giêng năm 1964, Đức Gioan Phaolô II đã
dâng thánh lễ tại đây ngày 23 tháng 3 năm 2000, và Đức Biển Đức XVI ngày 12
tháng 5 năm 2009.
Hiện nay Phòng Tiệc Ly
là sở hữu của chính quyền Israel, nhưng nằm dưới quyền tài phán của Ủy ban hồi
quản trị các nơi thánh Hồi giáo của Giordania và chỉ được dùng cho các lễ nghi
tôn giáo, và vua Abdullah II là thủ lãnh tối cao của Ủy ban này.
Các
tu sĩ Phanxicô đã dọn một bàn thờ với các ghế cho các vị đồng tế. Giảng trong thánh lễ
kính Chúa Thánh Thần Đức Thánh Cha nói:
Anh em thân mến, thật
là một ơn lớn lao Chúa ban cho chúng ta, được tụ họp nhau nơi đây trong Phòng
Tiệc Ly để cử hành Bí tích Thánh Thể. Nơi đây Chúa Giêsu đã ăn bữa Tiệc Chiều
sau hết với các Tông Đồ; nơi ngài đã hiện ra giữa các vị sau khi sống lại; nơi
Chúa Thánh Thần đã hiện xuống với quyền lực trên Mẹ Maria và các môn đệ. Đây là nơi Giáo Hội sinh ra và ra đi. Từ đây Giáo Hội đã
khởi hành với Bánh được bẻ ra giữa các bàn tay, với các vết thương của Chúa
Giêsu trong đôi mắt, và Chúa Thánh Thần tình yêu trong con tim. Chúa Giêsu phục
sinh được Chúa Cha gửi đến trong Phòng Tiệc Ly thông truyển cho các Tông Đồ
cùng Thần Khí của Người, và với sức mạnh này Ngài gửi các vị ra đi canh tân
gương mặt của trái đất (x. Tv 104,30).
Đi
ra, khởi hành không có nghĩa là quên lãng. Giáo Hội đi ra giữ
gìn ký ức những điều đã xảy ra; Chúa Thánh Thần nhắc cho Giáo Hội nhớ từng lời
nói, từng cử chỉ và vén mở ý nghĩa của chúng. Phòng
Tiệc Ly nhắc cho chúng ta biết việc phục vụ và rửa chân mà Chúa Giêsu đã thành
toàn, như mẫu gương cho các môn đệ Người. Rửa chân cho
nhau có nghĩa là tiếp đón nhau, chấp nhận nhau, yêu thương nhau, phục vụ lẫn
nhau. Có nghĩa là phuc vụ người nghèo, người đau yếu,
người bị loại trừ. Với Thánh Thể Phòng Tiệc Ly nhắc
chúng ta nhớ tới hy lễ. Trong mỗi buổi cử hành Thánh
Thể Chúa Giêsu tự hiến cho Thiên Chúa Cha vì chúng ta, để chúng ta cũng có thể
hiệp nhất với Người, dâng cuộc sống, công việc làm, các vui buồn khổ đau của
chúng ta cho Thiên Chúa, dâng mọi sự như hy lễ tinh thần.
Phòng
Tiệc Ly nhắc chúng ta nhớ tới tình bạn. Chúa Giêsu nói với nhóm Mười Hai: “Thầy
không gọi các con là tôi tớ... nhưng là bạn hữu” (Ga 15,15).
Chúa làm cho chúng ta trở thành bạn của Người, ký thác cho chúng ta ý muốn của
Thiên Chúa Cha và ban chính Người cho chúng ta. Đó là kinh nghiệm đẹp nhất của
kitô hữu, và một cách đặc biệt của linh mục: trở thành bạn của Chúa Giêsu.
Tiếp tục bài giảng
thánh lễ cử hành trong Phòng Tiệc Ly Đức Thánh Cha nói: Phòng Tiệc Ly nhắc nhớ
cuộc từ biệt và lời hứa gặp lại các bạn của Người: “Khi Thầy sẽ đi rồi.... Thầy
sẽ lại đến và đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó” (Ga
14,3). Chúa Giêsu không rời chúng
ta, Người không bao giờ bỏ rơi chúng ta, Người đi trước chúng ta trong nhà của
Chúa Cha và Người muốn đem chúng ta tới đó. Tuy nhiên Phòng Tiệc Ly cũng
nhằc nhớ tới điều tiêu cực, Đức thánh Cha nói:
Nhưng Phòng Tiệc Ly
cũng nhắc nhớ sự nhỏ nhen, tính tò mò “ai là người phản bội?”,
sự phản bội. Và mọi người trong chúng ta, chứ không luôn luôn phải là người
khác, có thể sống lại các thái độ này, khi chúng ta nhìn người anh em với sự tự
mãn, khi chúng ta phán xét họ, khi chúng ta phản hội Chúa Giêsu với các tội lỗi
của chúng ta.
Phòng Tiệc Lỵ nhắc nhở
sự chia sẻ, tình huynh đệ, sự hòa hợp, sự bình an giữa
chúng ta. Đã có biết bao nhiêu tình yêu thương, biết bao nhiêu điều thiện đã
nảy sinh từ Phòng Tiệc Ly! Biết bao nhiêu bác ái đã xuất phát từ đây, như một
dòng sông chảy từ nguồn, ban đầu chỉ là một con suối nhỏ rồi lan
rộng và trở thành con sông lớn... Tất cả các Thánh đã kín múc từ đây; dòng sông
lớn sự thánh thiên của Giáo Hội luôn luôn bắt nguồn từ đây, luôn luôn mới mẻ,
từ Trái Tim Chúa Kitô, từ Thánh Thể, từ Thần Khí Thánh của Người.
Sau cùng Phòng Tiệc Ly
nhắc chúng ta nhớ tới sự khai sinh của gia đình mới, Giáo Hội, do Chúa Giêsu
phục sinh thành lập. Một gia đình có một Bà Mẹ là Đức Trinh
Nữ Maria. Các gia đình kitô thuộc đại gia đình này, và tìm thấy trong đó
ánh sáng và sức mạnh để bước đi và canh tân, qua các nhọc mệt và thử thách của
cuộc sống. Tất cả mọi con cái Thiên Chúa thuộc mọi dân tộc và
ngôn ngữ đều được mời gọi thuộc gia đình này, tất cả là anh em và là con cái
của một Cha duy nhất ở trên trời. Đó là chân trời của Phòng Tiệc Ly:
chân trời của Chúa phục sinh và của Giáo Hội.
Từ
đây Giáo Hội ra đi, được linh hoạt bởi Thần Khí. Tụ tập cầu nguyện với
Mẹ Chúa Giêsu, Giáo Hội luôn sống trở lại sự chờ đợi Thánh Thần được tuôn đổ
xuống một lần nữa: Lậy Chúa, xin Thần Khí Chúa xuống và canh tân mặt đầt (c. Tv
104,30).
Sau Thánh Lễ Đức Thánh
Cha đã bắt tay chào các tu sĩ nam nữ và giáo dân hiện
diện bên ngoài, kể cả mấy cảnh sát. Tiếp đến ngài đi xe
đến núi Scopus cách đó 5 cây số để lấy trực thăng bay về phi trường Ben Gourion
ở Tel Aviv. Tại đây lễ nghi từ biệt đã diễn ra lúc 8 giờ
chiều. Đức Thánh Cha, tổng thống Perez và Thủ tướng
Netanyahu đã duyệt hàng chào danh dự. Đức Thánh Cha đã bắt tay từ biệt các giới chức đạo đời và cả các cảnh sát viên và
nhân viên phục vụ phi trường.
Tổng
thống và Thủ tướng
*** Tuy chương trình ba
ngày viếng thăm dầy đặc và khá mệt mỏi nhưng trên đường về Roma Đức Thánh Cha
cũng đã dành cho các nhà báo một cuộc phỏng vấn đài 50 phút vế tất cả mọi vấn
đề. Cha Lombardi Giám đốc phòng báo chí Tòa Thánh đã cám ơn
Đức Thánh Cha dành thời giờ cho các nhà báo sau chuyến viếng thăm mệt nhọc này.
Chị Cristina Caricato
thuộc đài truyền hình 2000 đã hỏi Đức Thánh Cha:
Hỏi: Thưa Đức Thánh
Cha, trong các ngày qua Đức Thánh Cha có các cử chỉ được chú ý trên toàn thế giới: đặt tay trên bức
tường tại Bếtlehem, làm dấu thánh giá, ôm hôn những người do thái sống sót của
các trại tập trung tại Yad Vashem, ôm hôn Đức Thượng Phụ Bartolomaios và các vị
lãnh đạo các Giáo Hội Kitô khác
tại Thánh Mộ. Đức Thánh Cha đã nghĩ trước và muốn có các cử chỉ đó hay sao, và
đâu sẽ là các kết qủa của chúng ngoài cử chỉ rất lớn là đã mời hai tổng thổng
Perez và Abu Mazen tới Vaticăng?
Đáp: Các cử chỉ chân thực nhất là các cử chỉ không được nghĩ trước,
nhưng chúng tới. Tôi đã nghĩ “Có thể làm một cái gì đó”,
nhưng các cử chỉ cụ thể thì không có cử chỉ nào được nghĩ trước cả. Vài
cử chỉ như cử chỉ mời hai tổng thống tham dự buổi cầu nguuện chung
thì có được nghĩ là làm ở đó, nhưng có biết bao nhiêu vấn đề khung cảnh nơi
chốn phải để ý, và không phải là điều dễ. Tôi có nghĩ một
chút tới vấn đề này, nhưng sau cùng thì xảy ra điều mà tôi hy vọng là tốt.
Nhưng chúng đã không được nghĩ và tính toán trước. Tôi thấy cần phải làm điều gì đó, nhưng nó tự phát, thế thôi.
Ít nhất nói thật ra thì tôi nghĩ “có thể làm một cái gì đó”,
nhưng cụ thể thì không. Chẳng hạn tại đài tưởng niệm
Yad Vashem, không có gì hết, nhưng rồi nó tới. Và như
vậy đó.
Câu thứ hai của anh
Frank Rocca, nhà báo hãng tin công giáo của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, đại diện nhóm
nói tiếng Anh.
Hỏi: Thưa Đức Thánh
Cha, Đức Thánh Cha đã có những lời lẽ rất mạnh mẽ chống lại việc lạm dụng tính
dục của trẻ em vị thành niên từ phía hàng giáo sĩ, các linh mục. Đức Thánh Cha đã thành lập một Ủy ban đặc biệt để đương đầu với vần đề này
trên bình diện Giáo Hội hoàn vũ.
Chúng ta biết rằng trên thực tế trong tất cả mọi Giáo Hội địa phương có các điều luật bắt buộc
luân lý và pháp luật cộng tác với các chính quyền dân sự cách này hay cách
khác. Nhưng nếu có một Giám Mục không tuân hành các đòi buộc này thì Đức Thánh Cha sẽ giải quyết ra sao: bó
buộc vị ấy từ nhiệm, hay có các hình phạt khác? Trong cụ thể
làm thế nào để có kỷ luật?
Đáp: Bên
Câu
hỏi thứ ba của anh Eusebio Val phóng viên báo “LaVanguardia” nhật báo lớn nhất
tại
Hỏi: Thưa Đức Thánh
Cha, ngay từ ngày đầu sứ vụ Đức Thánh Cha đã gióng sứ điệp của một Giáo Hội nghèo và cho
người nghèo, nghèo trong sự đơn sơ và khổ hạnh. Nhưng
đôi khi chúng con trông thấy các gương mù gương xấu chẳng hạn như vụ căn hộ của
Đức Hồng Y Bertone, hay buổi lễ ngày phong Thánh hoặc trở lại với chuyện liên
quan tới Đức Hồng Y Bertone, sự hỗn loạn của Viện giáo vụ hay nhà băng Vaticăng
liên quan tới 15 triệu Euros... Đức Thánh Cha nghĩ sao?
Phải làm sao để đừng có các mâu thuẫn chống lại sứ điệp của
sự khắc khổ?
Đáp: Có một lần Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ Người trong Phúc Âm:
“Không thể tránh được các gương mù gương xấu. Chúng ta là
người, tất cả là người tội lỗi. Và sẽ có các gương mù
gương xấu. Vấn đề là tránh để đừng xảy ra nhiều gương
mù gương xấu hơn. Trong việc quản trị kinh tế cần có sự liêm chính và
trong sáng. Hai ủy ban: ủy ban nghiên cứu Viện giáo vụ IOR và Ủy ban nghiên cứu
mọi vấn đề của thành Vaticăng đã đưa ra các kết luận và đưa ra các chương trình
hành động. Giờ đây với Văn phòng thư ký kinh tế do Đức
Hồng Y Pell làm chủ tịch, các cải tổ do hai ủy ban cố vấn sẽ được thực thi.
Nhưng có các việc không ăn khớp, và sẽ luôn có các
việc không ăn khớp, bởi vì chúng ta là người, nhưng việc cải tổ phải được tiếp
tục.
Các Giáo Phụ đã nói:
“Ecclesia semper reformanda” Giáo Hội luôn luôn cải cách. Chúng
ta phải chú ý cải tổ Giáo Hội mỗi ngày, bởi vì chúng ta tội lỗi, chúng ta yếu
đuối, và sẽ có các vấn đề. Việc quản trị mà Văn phòng thư
ký kinh tế đang làm sẽ giúp minh nhiên các gương mù gương xấu, các vấn đề...
Chẳng hạn trong Viện giáo vụ tức nhà băng Vaticăng tôi tin là ở thời điểm này
chúng đã được đóng lại. Số người không có quyền mở trương mục
là 1.600. Tổ chức IOR là để giúp Giáo Hội. Các giám mục giáo phận, các nhân viên Vaticăng và các người chồng
hay vợ góa của họ có quyền có trương mục. Những người
khác, các tòa đại sứ không có quyền có trương mục. Nhà băng Vaticăng
không phải dành cho mọi người. Và đóng trương mục của những
người không có quyền là một việc tốt. Liên quan tới vụ
15 triệu Euros thì còn đang được cứu xét. Nó không rõ ràng. Có lẽ nó là sự thật, nhưng trong lúc này thì vấn đề chưa được xác
định. Nó đang được cứu xét để công bằng.
Câu hỏi tiếp là của anh
Sébastien Maillard, phóng viên của báo La Croix thuộc nhóm nói tiếng Pháp.
Hỏi: Sau vùng Trung
Đông giờ đây chúng ta trở về Âu châu. Đức Thánh Cha có lo lắng vì phong trào
Duy nhân dân đang gia tăng tại âu
châu như được biểu lộ trong cuộc bỏ phiếu Quốc Hội Âu châu ngày hôm qua hay
không?
Đáp: Trong những ngày này tôi đã có một ít
giờ cầu nguyện với Kinh Lậy Cha, nhưng tôi không có tin tức về cuộc bầu cử, Tôi
không có các dữ kiện, ai thắng ai không thăng. Nhưng mà duy
nhân dân trong nghĩa nào?
Hỏi: Trong nghĩa ngày
nay nhiều người dân Âu châu lo sợ, họ nghĩ rằng trong Âu châu không có tương
lai. Có nhiều người thất nghiệp và đảng chống âu châu đã gia tăng mạnh trong
lần bầu cử này...
Đáp: Đây là đề tài tôi đã nghe nói liên quan tới Âu châu, tin tưởng hay
không tin tưởng nơi Âu châu, liên quan tới cả đồng Euro nữa. Có người muốn trở
lại đàng sau... Tôi không hiểu nhiều lắm về các điều này.
Nhưng anh đã cho tôi một từ chìa khóa: nạn thất nghiệp. Đây
là điều trầm trọng. Điều trầm trọng, bởi vì tôi giải
thích nó như thế này. Chúng ta đang sống trong một hệ
thống kinh tế thế giới trong đó tiền bạc là trọng tâm, chứ không phải bản vị
con người. Trong một hệ thống kinh tế đích thật con người phải là trung
tâm. Nhưng ngày nay ở trung tâm có tiền bạc. Để duy trì điều này, để quân bằng thì phải tiến tới với các biện
pháp “loại bỏ”. Và người ta loại bỏ trẻ em. Mức sinh tại Âu châu không cao. Tôi tin rằng ở Italia được 1,2 %, Pháp được 2% hay hơn một chút, Tây Ban Nha còn thấp
hơn Italia chỉ được 1%. Người ta loại bỏ các trẻ em, người ta loại bỏ người
già: người già không hữu dụng, trong lúc này người ta còn thăm họ, vì họ đã về
hưu và họ cần, nhưng là điều thêm vào thôi. Nhưng tại nhiều
nước người ta loại bỏ người già cả với các tình trạng lén lút làm cho chết êm
dịu nữa. Nghĩa là người ta cho thuốc mem cho tới một
thời điểm nào đó thội. Và trong lúc này đây người ta
loại bỏ người trẻ, và đây là điều vô cùng trầm trọng, vô cùng trầm trọng.
Tại Italia tôi tin rằng số người trẻ thất nghiệp hầu như tới 40%, tôi không chắc;
tại Tây Ban Nha tôi chắc chắn là 50%. Và trong vùng Andalusa
nam Tây Ban Nha số người trẻ thất nghiệp là 60%. Điều
này có nghĩa là cả một thế hệ của “Không-không”, họ không học hành và không làm
việc và đây là điều vô cùng trầm trọng. Người ta loại
bỏ cả một thế hệ người trẻ. Đối với tôi nền văn hóa
loại bỏ này rất trầm kha. Nhưng đây không phải chỉ là
bên Âu châu mà thôi, mà ở khắp nơi, nhưng người ta cảm thấy nhiều hơn bên Âu
châu. Nếu so sánh với nền văn hóa thoải mái cách đây 10 năm! Và đây là điều thê thảm. Đây là lúc khó
khăn. Một nền kinh tế vô nhân. Tôi đã không sợ
hãi viết trong tông huấn “Niềm vui của Tin Mừng” rằng: hệ thống kinh tế này
giết người. Và tôi lập lại điều đó. Tôi không biết tôi
đã tới gần nỗi lo lắng cảu anh một chút hay chưa?
Chị Ilze Scamparini,
phóng viên đài Rede Globo Brasil, hỏi Đức Thánh Cha.
Hỏi: Thưa Đức Thánh
Cha, Đức Thánh Cha có đồng ý với
việc trả lại thành Giêrusaelm cho người
Đáp: Có nhiều đề nghị liên quan tới vấn đề Giêrusalem. Giáo Hội công
giáo, Toà Thánh Vaticăng, có lập trường của mình trên bình diện tôn giáo: nó sẽ
là thành phố của hòa bình của ba tôn giáo. Đó là trên bình
diện tôn giáo. Các biện pháp cụ thể cho hòa bình cần
được phát xuất từ việc thương thuyết. Phải thương
thuyết. Tôi sẽ đồng ý điều phát xuất từ cuộc thương thuyết giả dụ như nó
sẽ là thủ đô của nước này và nước kia. Tôi không nói rằng nó phải như vậy; không, đó là giả thuyết mà họ
phải thương thảo. Thật thế tôi không cảm thấy mình là chuyên viên để nói
rằng “phải làm cái này cái nọ” nếu không sẽ thật là điên rồ! Nhưng
tôi tin rằng cần phải bước vào cuộc thương thuyết với sự liêm chính, tình huynh
đệ, sự tin tưởng lẫn nhau trên con đường thương thảo. Và trong đó cần
phải thương lượng tất cả: toàn vùng đất và cả các tương quan với nhau nữa Cần
phải có can đảm để làm điều đó. Tôi cầu xin Chúa rất nhiều để cho hai vị lãnh
đạo, hai chính quyền có can đảm tiến tới. Đó là con đường duy nhất cho hòa
bình. Còn Giêrusaelem thế này thế nọ, tôi chỉ nói điều Giáo Hội phải nói và đã
luôn luôn nói: đó là ước gì Giêrusalem được giữ gìn như thủ đô của ba tôn giáo,
như điểm quy chiếu, như một thành phố hòa bình - tôi cũng nghĩ tới từ thánh
thiêng, nó không đúng - nhưng một thành phố hòa bình và tôn giáo.
Bài phỏng vấn còn các
câu hỏi liên quan tới vấn đề linh
mục có gia đình, tới chuyến viếng thăm Á châu và tình hình của các Kitô hữu khổ đau trong các nước không có tự do tôn
giáo và tự do ngôn luận như Trung Cộng và Bắc Hàn, vấn đề từ nhiệm chức vụ Giáo
Hoàng, việc phong chân phước cho Đức Pio XII, khả thể cho các tín hữu ly dị tái
hôn rước lễ, và tiến trình cải tổ giáo triều Vaticăng. Chúng tôi sẽ gửi tới qúy
vị và các bạn nội dung các câu trả lời của Đức Thánh Cha Phanxicô trong lần
phát tới.
Linh Tiến Khải