Đức Thánh Cha tiếp kiến chung: kỷ niệm 50 năm Nostra aetate
VATICAN. Trong
buổi tiếp kiến chung sáng ngày 28-10-2015, ĐTC đã cùng với 40 ngàn tín hữu và đại
diện các tôn giáo kỷ niệm 50 năm Tuyên ngôn “Nostra aetate” (Thời đại chúng ta)
của Công đồng chung Vatican 2 về quan hệ của Giáo Hội Công Giáo với các tôn
giáo ngoài Kitô.
Bầu trời u ám,
và trước đó có mưa, nên ĐTC đã chào thăm trước các anh chị em bệnh nhân và những
người tháp tùng họ, tụ tập tại Đại thính đường Phaolô 6, rồi ngài tiến ra quảng
trường, tiến qua các lối đi để chào thăm đông đảo các tín hữu khác.
Lên tới bục cao
ở thềm Đền thờ, ĐTC đặc biệt dừng lại chào thăm ĐHY Jean Louis Tauran, người
Pháp, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn, và ĐHY Kurt Koch, người
Thụy Sĩ, Chủ tịch Ủy ban Tòa Thánh liên lạc với Do thái giáo. Hai vị đã lần lượt
giới thiệu lên ĐTC các tham dự viên thuộc nhiều tôn giáo khác nhau, đang tham dự
Hội nghị quốc tế tại Đại học Giáo Hoàng Gregoriana ở Roma nhân dịp kỷ niệm 50
năm Tuyên ngôn Nostra aetare của Công đồng chung Vatican 2. Trong số các tham dự
viên có phái đoàn của tổ chức 'Hội đồng Do thái thế giới' (World Jewish
Congress).
Tiếp đến, mọi
người đã nghe đọc một đoạn trong tuyên ngôn Nostra aetare bằng nhiều thứ tiếng
khác nhau.
Huấn dụ của ĐTC
Trong bài huấn
dụ tiếp đó, ĐTC đã tạm gác loạt bài giáo lý về gia đình, để nói về Tuyên ngôn
Nostra aetate, Thời đại chúng ta, của Công đồng chung Vatican 2 về tương quan
giữa Giáo Hội Công Giáo và các tôn giáo không Kitô, nhân dịp kỷ niệm đúng 50
năm công bố tuyên ngôn này. ĐTC nói:
“Trong các buổi
tiếp kiến chung thường có những người hoặc nhóm thuộc các tôn giáo khác; nhưng
hôm nay, sự hiện diện này thật là đặc biệt để cùng nhau kỷ niệm 50 năm Tuyên
ngôn Nostra aetate của Công đồng chung Vatican 2 về quan hệ của Giáo Hội Công
Giáo với các tôn giáo ngoài Kitô. Đề tài này rất được Đức Chân phước Giáo Hoàng
Phaolô 6 quan tâm: ngay từ lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống vào năm trước khi bế mạc
Công Đồng, ngài đã thành lập Văn phòng về những người không Kitô, nay là Hội đồng
Tòa Thánh đối thoại liên tôn. Vì thế tôi bày tỏ lòng biết ơn và nồng nhiệt chào
đón những người và các nhóm thuộc các tôn giáo khác, hôm nay đã muốn có mặt tại
đây, đặc biệt là những người đến từ xa.
Công đồng chung
Vatican 2 là một thời kỳ đặc biệt suy tư, đối thoại và cầu nguyện để đổi mới
cái nhìn của Giáo Hội Công Giáo về chính mình và thế giới. Đó là một sự đọc các
dấu chỉ thời đại để nhắm đến một sự canh tân, theo hai chiều hướng trung thành:
trung thành với truyền thống Giáo Hội và trung thành với lịch sử con người nam
nữ thời nay. Thực vậy, Thiên Chúa đã tỏ mình ra trong sự sáng tạo và trong lịch
sử, Chúa đã nói qua các ngôn sứ và sau cùng trong Con của Ngài nhập thể làm người
(Xc Dt 1,1), Chúa ngỏ lời với tâm trí mỗi người đang tìm kiếm chân lý và những
con đường để thực thi chân lý.
Sứ điệp của
Tuyên ngôn Nostra aetate vẫn luôn có tính chất thời sự. Chúng ta gợi lại đây vắn
tắt vài điểm:
- Sự gia tăng lệ
thuộc lẫn nhau giữa các dân tộc (Xc n.1);
- sự tìm kiếm của
con người một ý nghĩa cuộc sống, đau khổ, sự chết, những vấn nạn này luôn tháp
tùng hành trình của chúng ta (Xc. n.1);
- nguồn gốc
chung và vận mạng chung của nhân loại (Xc. n.1);
- đặc tính có một
không hai của gia đình nhân loại (Xc n.1);
- các tôn giáo
như một sự tìm kiếm Thiên Chúa hoặc Đấng Tuyệt Đối, giữa lòng các chủng tộc và
văn hóa khác nhau (Xc n.1);
- Cái nhìn từ
ái và quan tâm của Giáo Hội về các tôn giáo: Giáo Hội không loại bỏ những gì là
tốt đẹp và chân thực trong các tôn giáo ấy (Xc n.2);
- Với lòng quí
mến, Giáo Hội nhìn tín đồ của mọi tôn giáo, đánh giá cao sự dấn thân tinh thần
và luân lý của họ (Xc. n.3)
- Giáo Hội cởi
mở đối thoại với tất cả mọi người, đồng thời trung thành với các chân lý mà
Giáo Hội tin, bắt đầu từ chân lý theo đó ơn cứu độ được cống hiến cho tất cả mọi
người có nguồn gốc nơi Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất, và Chúa Thánh Linh
đang hoạt động, như nguồn mạch an bình và yêu thương.
Tiếp tục bài huấn
giáo, ĐTC nhận xét rằng:
“Có bao nhiêu
biến cố, sáng kiến và các quan hệ chính thức hoặc cá nhân với các tôn giáo
không Kitô trong 50 năm qua, và khó lòng nhắc đến tất cả nơi đây. Một biến cố đặc
biệt ý nghĩa là cuộc gặp gỡ tại Assisi ngày 27-10 năm 1986. Cuộc gặp gỡ này do
Thánh Gioan Phaolô 2 mong muốn và cổ võ, một năm trước ngày đó, tức là cách đây
30 năm, Người đã ngỏ lời với các bạn trẻ Hồi giáo ở thành phố Casablanca
(Maroc) và cầu mong rằng tất cả những người tin nơi Thiên Chúa thăng tiến tình
thân hữu và sự hiệp nhất giữa con người và các dân tộc (19-8-1985). Ngọn lửa được
đốt lên ở Assisi, đã lan tỏa ra toàn thế giới và tạo thành một dấu chỉ hy vọng
trường kỳ.
Chúng ta đặc biệt
cảm tạ Thiên Chúa vì sự biến đổi thực sự trong 50 năm qua trong quan hệ giữa
các tín hữu Kitô và Do thái. Sự dửng dưng và chống đối đã biến thành sự cộng
tác và thiện cảm. Từ kẻ thù và xa lạ, chúng ta đã trở thành bạn hữu và anh chị
em với nhau. Công đồng, qua tuyên ngôn Nostra aetate, đã vạch ra con đường: đồng
ý tái khám phá các căn cội Do thái của Kitô giáo; chống lại mọi hình thức bài
Do thái và lên án mọi thứ lăng mạ, kỳ thị và bách hại từ đó mà ra. Sự hiểu biết,
tôn trọng và quí chuộng nhau trở thành con đường, nếu có giá trị đối với quan hệ
với người Do thái, thì cũng có giá trị cho quan hệ đối với các tôn giáo khác.
Tôi đặc biệt nghĩ đến những người Hồi giáo, như Công Đồng nhắc nhớ, họ là “những
người thờ lạy Thiên Chúa duy nhất, hằng sống và lập hữu, từ bi và toàn năng,
sáng tạo trời đất, và là Đấng nói với con người” (Nostra aetate, 5). Họ là con
cháu tổ phụ Abraham, tôn kính Đức Giêsu như vị ngôn sứ, tôn kính Đức Mẹ Maria,
chờ đợi ngày phán xét, và thực hành kinh nguyện, làm phúc và chay tịnh (Xc
ibid.).
“Cuộc đối thoại
mà chúng ta đang cần chỉ có thể là cuộc đối thoại cởi mở và tôn trọng, và như
thế mới mang lại thành quả. Sự tôn trọng lẫn nhau là điều kiện, và đồng thời là
mục đích của cuộc đối thoại liên tôn: tôn trọng quyền sống của người khác, quyền
được toàn vẹn về thể lý, các quyền tự do cơ bản, nghĩa là tự do lương tâm, tự
do tư tưởng, ngôn luận và tôn giáo.
Thế giới nhìn
các tín hữu chúng ta, khuyên nhủ chúng ta cộng tác với nhau và những người nam
nữ thiện chí, không tuyên xưng một tôn giáo nào, họ yêu cầu chúng ta những câu
trả lời hữu hiệu về nhiều vấn đề: hòa bình, nghèo đói, lầm than đang đè nặng
trên hằng triệu người, cuộc khủng hoảng môi trường, bạo lực, đặc biệt là bạo lực
người ta phạm nhân danh tôn giáo, nạn tham ô, sa đọa luân lý, những cuộc khủng
gia đình, kinh tế, tài chánh, nhất là khủng hoảng hy vọng. Các tín hữu chúng ta
không có công thức cho những vấn đề đó, nhưng chúng ta có một nguồn lực rất lớn,
đó là kinh nguyện, Kinh nguyện là kho tàng của chúng ta, từ đó chúng ta kín múc
theo các truyền thống liên hệ, để xin những hồng ân mà nhân loại khao khát.
Vì bạo lực và
khủng bố, có sự lan tràn một thái độ nghi kỵ hoặc thậm chí lên án cả các tôn
giáo. Trong thực tế, mặc dù không có tôn giáo nào được miễn nhiễm khỏi nguy cơ
có những sai trái duy căn hoặc cực đoan hoặc nơi các cá nhân và nhóm (Xc Diễn
văn tại Quốc hội Mỹ 24-9-2015), nhưng cần nhìn các giá trị tích cực mà các tôn
giáo đang sống và đề nghị, và các giá trị ấy là nguồn mạch hy vọng. Vấn đề ở
đây là hướng cái nhìn lên cao để đi xa hơn. Cuộc đối thoại dựa trên sự tôn trọng
tín thác có thể gieo những hạt giống sự thiện, nó sẽ nảy mầm thân hữu và cộng
tác trong bao nhiêu lãnh vực, và nhất là trong việc phục vụ người nghèo, người
bé mọn, người già, trong việc tiếp đón người di dân, trong sự quan tâm đến những
người bị gạt bỏ. Chúng ta có thể đồng hành, chăm sóc nhau và thiên nhiên. Cùng
nhau chúng ta có thể chúc tụng Đấng Tạo Hóa vì đã ban cho chúng ta mảnh vườn thế
giới để vun trồng và giữ gìn như một công ích, và chúng ta có thể thực hiện những
dự án chung để bài trừ nghèo đói và đảm bảo cho mỗi người nam nữ những điều kiện
sống xứng đáng.
Năm Thánh ngoại
thường về lòng thương xót đang đến gần, đó là cơ hội thuận tiện để cùng nhau
làm việc trong lãnh vực bác ái. Và trong lãnh vực này, điều đáng kể nhất chính
là sự cảm thương, chúng ta có thể liên kết với bao nhiêu người không cảm thấy
mình là tín hữu hoặc những người đang tìm kiếm Thiên Chúa và chân lý, những người
đặt ở trung tâm khuôn mặt của người khác, đặc biệt khuôn mặt của người anh chị
em túng thiếu. Nhưng lòng từ bi thương xót mà chúng ta được kêu gọi thi hành
bao gồm toàn thể công trình sáng tạo, mà Thiên Chúa ủy thác cho chúng ta canh
giữ, và không phải để bóc lột khai thác, và càng không phải để phá hủy. Chúng
ta phải luôn luôn quyết tam để lại một thế giới tốt đẹp như chúng ta đã thấy
(Xc Thông điệp Laudato sì, 194). khởi hành từ môi trường chúng ta đang sống, từ
những cử chỉ bé nhỏ trong đời sống thường nhật của chúng ta.
Và ĐTC kết luận
rằng:
“Anh chị em
thân mến, về tương lai cuộc đối thoại liên tôn, điều đầu tiên mà chúng ta phải
làm là cầu nguyện. Nếu không có Chúa, không gì có thể; với Chúa, tất cả đều trở
nên có thể! Ước gì kinh nguyện của chúng ta hoàn toàn tuân theo thánh ý Chúa, Đấng
mong muốn rằng tất cả mọi người nhìn nhận nhau là anh chị em với nhau và sống với
nhau như vậy, họp thành một đại gia đình nhân loại trong sự hòa hợp những khác
biệt”.
Sau khi ĐTC hết
thúc bài giáo lý dài bằng tiếng Ý, các LM đã tóm lược bài này bằng nhiều sinh
ngữ khác kèm theo những lời chào thăm của ĐTC.
Cuối buổi
tiếp kiến, vì có nhiều anh chị em không Kitô hiện diện tại buổi tiếp kiến, ĐTC
mời gọi mọi người, cầu nguyện trong thinh lặng, mỗi người theo truyền thống tôn
giáo của mình, để chúng ta được trở nên anh chị em với nhau hơn và sẵn sàng phục
vụ các anh chị em túng thiếu. Và ngài kết luận: “Xin Chúa chúc lành cho anh chị
em!”
G. Trần Đức Anh
OP (vi.radiovaticana.va/news/28/10/2015 12:28)