Đức Thánh Cha tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh
VATICAN. Trong
buổi tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh sáng ngày 11-1-2016, ĐTC đặc biệt
lưu ý cộng đồng quốc tế quan tâm và giải quyết hợp lý vấn đề làn sóng người di
dân.
ĐTC Phanxicô đã
tiếp kiến đoàn ngoại giao cạnh Tòa Thánh, gồm đại diện của 180 quốc gia và tổ
chức quốc tế có quan hệ trên cấp đại sứ, cùng với đại diện của chính quyền
Palestine, đến chúc mừng ngài nhân dịp đầu năm mới.
Buổi tiếp kiến
ngoại giao đoàn cũng là dịp để ĐTC kiểm điểm tình hình thế giới đồng thời bày tỏ
lập trường của Tòa Thánh đối với các vấn đề thời sự.
Sau lời chào mở
đầu của vị Niên trưởng ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh, là Đại Sứ của Angola,
Ông Armindo Fernandes do Espírito Santo Vieira, ĐTC đã lên tiếng chào thăm tất
cả các vị đại sứ và cám ơn vị niên trưởng ngoại giao đoàn, và hài lòng ghi nhận
trong năm qua, con số các vị đại sứ cạnh Tòa Thánh thường trú ở Roma gia tăng
(từ 80 lên 86), điều này chứng tỏ sự quan tâm của cộng đồng quốc tế đối với hoạt
động ngoại giao của Tòa Thánh. ĐTC cũng nhắc đến việc ký kết và phê chuẩn các
hiệp định giữa Tòa Thánh và các nước trong năm qua, kể cả hiệp định với
Palestine, hiệp định về thuế khóa với Italia và Hoa Kỳ. Ngài cũng nói đến những
nét nổi bật trong các cuộc viếng thăm ngài thực hiện trong năm qua tại
Philippines, Sri Lanka, Sarajevo, 3 nước Nam Mỹ, Cuba, Hoa Kỳ, LHQ, và 3 nước
Phi châu: Kenya, Uganda, và Cộng hòa Trung Phi. Sau cùng ĐTC nói đến việc mở
Năm Thánh lòng thương xót. Trong phần kế tiếp, ĐTC đặc biệt nói đến vấn đề di
dân trong thế giới ngày nay, nhất là tại Âu Châu, với những vấn đề đi kèm. Ngài
nói:
Vấn đề di dân
Quí vị Đại sứ
thân mến, một tinh thần cá nhân chủ nghĩa là mảnh đất phì nhiêu làm bành trướng
cảm thức dửng dưng lãnh đạm đối với tha nhân, đưa tới thái độ đối xử với họ như
một món hàng mua bán, đẩy đưa tới sự không quan tâm gì tới nhân tính của người
khác và rốt cục làm cho con người yếu nhược và có tâm trạng ”sống chết mặc
bay”. Phải chăng đó chẳng phải là những tâm tình mà nhiều khi chúng ta có đứng
trước những người nghèo, người ở ngoài lề, những người rốt cùng trong xã hội
sao? Và bao nhiêu người rốt cùng trong các xã hội chúng ta! Trong số những người
ấy, tôi nghĩ trước tiên tới những người di dân, với những khó khăn và đau khổ của
họ, mà họ phải đương đầu hằng ngày trong việc tìm kiếm một nơi để sống an bình
và xứng đáng, nhiều khi cuộc tìm kiếm của họ thật là tuyệt vọng.
Vì thế, hôm
nay, tôi muốn dừng lại để cùng với quí vị suy tư về sự cấp thiết trầm trọng của
làn sóng di cư mà chúng ta đang gặp, để phân định những nguyên do của nó, hướng
đến những giải pháp, chiến thắng thái độ sợ hãi không thể tránh né đi kèm một
hiện tượng ồ ạt và rộng lớn như vậy, liên hệ đặc biệt tới Âu Châu trong năm
2015, và cả một số miền ở Á châu và Trung Mỹ.
”Đừng sợ và
kinh hãi, vì Chúa là Thiên Chúa của ngươi ở với ngươi, dù ngươi đi đâu” (Gs
1,9). Đó là lời mà Thiên Chúa hứa với Ông Giôsuê và cho thấy Chúa tháp tùng mỗi
người dường nào, nhất là người ở trong tình cảnh mong manh như người đang tìm
nơi tị nạn ở nước ngoài. Thực vậy, toàn thể Kinh Thánh kể lại cho chúng ta lịch
sử nhân loại lữ hành, vì tình trạng di động là điều gắn liền với bản tính con
người. Lịch sử loài người được hình thành với bao nhiêu cuộc di dân, nhiều khi
diễn ra như một ý thức về quyền tự do chọn lựa, nhưng đôi khi do những hoàn cảnh
bên ngoài đòi hỏi. Từ cuộc lưu vong khỏi địa đàng cho đến Abraham tiến về đất hứa;
từ trình thuật cuộc Xuất Hành khỏi Ai Cập đến cuộc lưu đày ở Babilon, Kinh
Thánh kể lại những cơ cực và đau khổ, ước muốn và hy vọng, giống như tình trạng
hàng trăm ngàn người lữ hành ngay nay, với cùng quyết tậm của Môisê đạt tới một
miền đất ”chảy sữa và mật” (Xc Xh 3,17), nơi họ có thể sống tự do và an bình.
Vì thế, ngày
nay cũng như xưa kia, chúng ta nghe thấy tiếng kêu của Rachele khóc thương con
bà không còn nữa (Xc Gr 31,15; Mt 2,18). Đó là tiếng của hàng ngàn người khóc
lóc trốn chạy những cuộc chiến tranh khủng khiếp, những cuộc bách hại và vi phạm
các quyền con người, hoặc tình trạng bấp bênh về chính trị hay xã hội, nhiều
khi làm cho cuộc sống của họ ở quê hương trở nên không thể sống nổi. Đó là tiếng
kêu của những người buộc lòng phải trốn chạy để tránh những hành động dã man
khôn tả đối với những người vô phương thế tự vệ, như các trẻ em và người khuyết
tật, hoặc cuộc tử đạo chỉ vì thuộc về một tôn giáo.
Cũng như hồi
đó, nay chúng ta nghe tiếng của Giacop nói với các con ông: ”Hãy đi xuống đó và
mua thóc về cho chúng ta để chúng ta có thể sống và không phải chết” (St 42,2).
Đó là tiếng của những người trốn chạy lầm than cùng cực, vì không thể nuôi sống
gia đình hoặc không được săn sóc sức khỏe, giáo dục, hoặc vì tình trạng sa sút,
không có hy vọng cải tiến, hoặc cũng vì những thay đổi khí hậu và điều kiện khí
hậu cùng cực. Rất tiếc là, chúng ta biết nạn đói vẫn còn là một trong những tai
ương trầm trọng nhất của thế giới chúng ta với hàng triệu trẻ em mỗi năm chết
vì đói. Nhưng điều đau buồn là nhận thấy rằng nhiều khi chính những người di
dân ấy không được thuộc vào các hệ thống bảo vệ dựa trên căn bản các hiệp định
quốc tế.
Chống nền văn
hóa gạt bỏ
Làm sao không
nhận thấy trong tất cả những điều đó là kết quả của ”nền văn hóa gạt bỏ” gây
nguy hiểm cho con người, hy sinh con người cho các thần tượng lợi lộc và tiêu
thụ? Điều trầm trọng là chúng ta trở nên quá quen thuộc với những tình trạng
nghèo đói và túng thiếu ấy, những thảm trạng của bao nhiêu người và coi chúng
là ”những điều bình thường”. Con người không còn được cảm thấy như một giá trị
hàng đầu phải tôn trọng và bảo vệ, nhất là nếu họ là người nghèo hoặc khuyết tật,
hay nếu họ chưa hữu ích - như những trẻ em chưa sinh ra - hoặc không còn hữu
ích nữa, như người già. Chúng ta trở nên vô cảm đối với mọi hình thức phung
phí, bắt đầu từ sự phung phí lương thực, là điều thuộc vào số đáng trách nhất,
trong khi có nhiều cá nhân và gia đình đang chịu đói và thiếu dinh dưỡng.
Cầu mong Hội
nghị về nhân đạo thành công
Tòa Thánh cầu
mong Hội nghị Thượng Đỉnh thế giới đầu tiên về nhân đạo, được LHQ triệu tập vào
tháng 5 tới đây , có thể thành công trong khung cảnh đau buồn ngày nay với các
cuộc xung đột và tai ương, với ý hướng đặt con người và nhân phẩm ở trọng tâm mọi
câu trả lời về nhân đạo. Cần có một sự dấn thân chung để quyết liệt lật ngược nền
văn hóa gạt bỏ và xúc phạm đến sự sống con người, để không một ai cảm thấy bị
lơ là hoặc quên lãng, và những sinh mạng khác không bị hy sinh vì thiếu tài
nguyên, và nhất là vì ý chí chính trị.
Tiếc thay, ngày
nay cũng như xưa kia, chúng ta nghe thấy tiếng của Giuda đề nghị bán em mình
(Xc St 37,26-27). Đó là sự kiêu hãnh của những kẻ cường quyền lạm dụng người yếu,
biến họ thành những đồ vật để phục vụ cho những mục tiêu ích kỷ hoặc những tính
toán chiến lược và chính trị. Nơi nào không thể có một sự di trú hợp pháp, thì
những người di dân thường buộc lòng phải chọn giải pháp nhờ những kẻ buôn người
hoặc buôn lậu, tuy phần lớn đều biết rõ những nguy cơ trong cuộc lữ hành sẽ bị
mất của cải, phẩm giá và cả mạng sống nữa. Trong viễn tượng đó, một lần nữa tôi
tái kêu gọi chấm dứt nạn buôn người, nạn biến con người thành món hàng, nhất là
những người yếu thế nhất và vô phương tự vệ. Trong tâm trí chúng ta vẫn luôn
ghi đậm hình ảnh những trẻ em bị chết trên biển cả, nạn nhân của sự vô lương
tâm của con người và sự độc địa của thiên nhiên. Rồi những người sống sót và đến
một quốc gia đón nhận, họ mang những chấn thương sâu đậm về kinh nghiệm ấy,
không kể những kinh nghiệm về những kinh hoàng vẫn xảy ra trong chiến tranh và
bạo lực.
Như xưa kia,
ngày nay người ta cũng nghe Thiên Thần lập lại: ”Hãy trỗi dậy, mang hài nhi và
mẹ Người, trốn sang Ai Cập và hãy ở đó cho đến khi Ta sẽ báo lại cho ông” (Mt
2,13). Đó là tiếng nói mà nhiều người di dân nghe thấy, họ là những người sẽ
không rời bỏ quê hương nếu không bị bó buộc. Trong số những người ấy có nhiều
tín hữu Kitô, ngày càng ồ ạt rời bỏ quê hương trong những năm gần đây, quê
hương mà họ đã cư ngụ từ thời đầu của Kitô giáo.
Sau cùng, ngày
nay chúng ta cũng nghe tiếng của tác giả thánh vịnh lập lại: ”Trên bờ sông
Babilone, ta ngồi ta khóc tưởng nhớ Sion” (Tv 136 [137], 1). Đó là tiếng khóc của
những người sẵn sàng trở về quê hương họ nếu có những điều kiện thuận lợi về an
ninh và sinh tồn. Nơi đây tôi cũng nghĩ đến các tín hữu Kitô ở Trung Đông, họ
mong muốn góp phần như những công dân với đầy đủ danh nghĩa vào thiện ích tinh
thần và vật chất của các quốc gia liên hệ.
Giải quyết
nguyên nhân thúc đẩy di cư
Phần lớn những
nguyên nhân tạo nên di cư người ta có thể giải quyết từ lâu. Và nhờ đó có thể
phòng ngừa bao nhiêu tai ương, hoặc ít là làm dịu bớt những hậu quả tàn ác của
chúng. Cả ngày nay, trước khi quá trễ, người ta có thể làm được nhiều điều để
chặn đứng những thảm họa và kiến tạo hòa bình. Nhưng điều này có nghĩa là đặt lại
vấn đề những thói quen và đường lối thực hành đã có từ lâu, bắt đầu từ những vấn
đề liên quan tới việc buôn bán võ khí cho tới vấn đề cung cấp các nguyên liệu
và năng lượng, vấn đề đầu tư, các chính sách tài chánh và sự hỗ trợ phát triển,
cho tới tệ nạn trầm trọng là tham nhũng. Chúng ta ý thức rằng về vấn đề di cư,
cần thiết lập những dự án trung và dài hạn, đi xa hơn những câu trả lời cấp thiết.
Các dự án đó một đàng phải thực sự giúp những người nhập cư hội nhập vào những
quốc gia tiếp đón, và đồng thời tạo điều kiện dễ dàng cho sự phát triển các nước
xuất cư, với những chính sách liên đới, nhưng không đòi các nước này phải theo
những chiến lược và chính sách ý thức hệ xa lạ hoặc trái ngược với các nền văn
hóa của những dân tộc mà sự viện trợ nhắm tới.
Không quên những
tình cảnh thê thảm khác, trong đó tôi đặc biệt nghĩ đến biên giới giữa Mêhicô
và Hoa Kỳ, mà tôi sẽ đến gần khi viến gthăm thành phố Ciudad Juárez vào tháng tới
đây, tôi muốn đặc biệt nghĩ đến Âu Châu. Thưc vậy, trong năm qua, Âu Châu đã có
một làn sóng tị nạn rất lớn - nhiều người tị nạn bị thiệt mạng khi toan tính đi
tới Âu Châu - làn sóng ồ ạt này chưa từng có trong lịch sử đại lục này, ít là từ
sau thế chiến thứ hai. Nhiều người di dân đến từ Á, Phi, xem Âu Châu là một điểm
tham chiếu cho các nguyên tắc như bình đẳng trước pháp luật, và các giá trị được
ghi khắc trong chính bản tính của mỗi người, như phẩm giá bất khả xâm phạm và sự
bình đẳng của mỗi người, lòng yêu mến tha nhân không phân biệt nguồn gốc hoặc
là thành viên của tổ chức nào, tự do lương tâm và tình liên đới với người đồng
loại.
Thách đố đối với
Âu Châu
“Tuy nhiên những
cuộc đổ bộ ồ ạt tới các bờ biển của Âu Châu dường như làm lung lay hệ thống đón
tiếp, được kiến tạo với bao vất vả trên những tro tàn của thế chiến thứ hai và
vẫn còn là ngọn đèn pha về tình người mà người ta tham chiếu. Đứng trước làn
sóng ồ ạt và những vấn đề đi kèm không thể tránh được, đã nảy sinh nhiều vấn nạn
về khả năng đón tiếp thực sự và sự thích ứng của những người ấy, đề sự thay đổi
sự tháp tùng văn hóa và xã hội của những nước tiếp cư, cũng như sự hoạch định lại
một số quân bình về chính trị địa lý của các miền. Một điều không kém phần quan
trọng là những lo sợ về an ninh, lo sợ càng được gia tăng trước những đe dọa
lan rộng do nạn khủng bố quốc tế. Làn sóng di dân hiện nay dường như đe dọa
chính nền tảng của tinh thần nhân bản mà Âu Châu vẫn luôn yêu mến và bảo vệ.
Tuy nhiên,
chúng ta không thể đánh mất các giá trị và các nguyên tắc nhân đạo, sự tôn trọng
phẩm giá mỗi người, nguyên tắc phụ đới và tình liên đới hỗ tương, dù chúng có
thể tạo nên gánh nặng lớn lao khó gánh vác trong một số thời điểm lịch sử. Vì
thế, tôi muốn tái khẳng định xác tín theo đó Âu Châu, với sự trợ giúp của gia sản
văn hóa và tôn giáo rộng lớn của mình, có những phương thế để bảo vệ vị trí
trung tâm của con người và tìm ra sự quân bình đúng đắn giữa hai nghĩa vụ luân
lý là bảo vệ các quyền của các công dân và bảo đảm sự trợ giúp cũng như tiếp
đón người di dân.
Đồng thời tôi
cũng thấy cần phải bày tỏ lòng biết ơn đối với tất cả những sáng kiến tạo điều
kiện cho sự tiếp đón xứng đáng dành cho con người, trong đó có Quỹ Di dân và Tị
nạn thuộc Ngân hàng phát triển của Hội đồng Âu Châu cũng như sự dấn thân của những
nước đã chứng tỏ thái độ chia sẻ quảng đại. Trước tiên tôi nghĩ đến các nước
láng giềng của Siria, đã tức khắc giúp đỡ và đón nhận, nhất là Liban, nơi mà
người tị nạn chiếm tới 1 phần 4 dân số, và nước Giordani đã không khép kín biên
giới mặc dù đã đón tiếp hàng trăm ngàn người tị nạn rồi. Cũng vậy không nên
quên những cố gắng của các nước đi hàng đầu, đặc biệt là Thổ nhĩ kỳ và Hy Lạp.
Tôi cũng muốn
bày tỏ lòng biết ơn đặc biệt đối với Italia, với quyết tâm cứu vớt nhiều sinh mạng
trong Địa Trung Hải, và vẫn còn mang gánh nặng đón tiếp đông đảo người tị nạn
trên lãnh thổ của mình. Tôi cầu mong rằng lòng hiếu khách truyền thống và tình
liên đới trổi vượt của nhân dân Italia không bị giảm bớt vì những khó khăn
không thể tránh được hiện nay, nhưng dưới ánh sáng truyền thống ngàn đời, có thể
đón nhận và hội nhập sự đóng góp về mặt xã hội, kinh tế và văn hóa mà người di
dân có thể mang lại.
ĐTC cũng nói rằng:
”Điều quan trọng là các nước đi hàng đầu trong việc đương đầu với tình trạng cấp
thiết hiện nay không bị bỏ mặc một mình, và điều quan trọng không kém là khởi sự
một cuộc đối thoại thẳng thắn và tôn trọng giữa tất cả các nước liên quan đến vấn
đề di dân - các nước nguyên quán, nước chuyển tiếp hoặc nước tiếp đón - để tìm
ra những giải pháp mới mẻ và lâu dài với óc sáng tạo táo bạo...
Khía cạnh văn
hóa và tôn giáo của hiện tượng di dân
Trong việc giải
quyết vấn đề di dân, chúng ta cũng không thể bỏ qua các khía cạnh văn hóa đi
kèm, bắt đầu từ những khía cạnh tôn giáo. Trào lưu cực đoan và thủ cựu tìm được
một môi trường dễ dàng không những không việc lợi dụng tôn giáo để chiếm quyền
bính, nhưng cả trong sự trống rỗng các lý tưởng và sự đánh mất căn tính - kể cả
căn tính tôn giáo - mà người ta thấy ở Tây Phương. Từ sự trống rỗng ấy nảy sinh
sự sợ hãi khiến người ta coi tha nhân như một nguy hiểm và một kẻ thù, co cụm
vào mình, bám chặt những lập trường thiên kiến của mình. Vì thế hiện tượng di
cư cũng đặt một câu hỏi nghiêm trọng về văn hóa mà ta không thể không trả lời.
Vì thế, sự tiếp đón có thể là một cơ hội thích hợp để có sự cảm thông và cởi mở
chân trời, cho người được đón tiếp, họ có nhiệm vụ tôn trọng các giá trị, truyền
thống và luật lệ của các cộng đồng đón nhận họ, và cho cả những cộng đồng tiếp
cư, được kêu gọi đề cao giá trị những gì mà người di dân có thể cống hiến để
mưu ích cho toàn thể cộng đoàn. Trong lãnh vực này Tòa Thánh tái quyết tâm dấn
thân trong lãnh vực đại kết và liên tôn để thiết lập một cuộc đối thoại chân
thành và liên chính, đề cao giá trị của những đặc thù và căn tính của mỗi người,
tạo điều kiện cho sự sống chung hòa hợp giữa mọi thành phần xã hội.
G. Trần Đức Anh
OP (vi.radiovaticana.va/news/11/01/2016 14:15)