Tường Thuật Ngày Thứ Ba Chuyến
Công Du Của ĐTC Bên Ba Lan
Thứ sáu 29
tháng 7 hôm qua là ngày thứ ba ĐTC Phanxicô viếng thăm mục vụ Ba Lan nhân Ngày
Quốc Tế Giới Trẻ lần thứ 31 tại Cracovia. ĐTC đã có bốn sinh hoạt chính: viếng
thăm hai trại tập trung đức quốc xã là Auschwitz và Birkenau, nhà thương
nhi đồng Prokocim, và vào ban chiều chủ sự buổi đi đàng Thánh Giá với giới trẻ
tại bãi đất trống “Blonia (đọc là Buonie). Sau đây là chi tiết các sinh hoạt của
ĐTC.
Lúc 7 giờ sáng
ĐTC đã dâng thánh lễ riêng trong nhà nguyện toà Tổng Giám Mục Cracovia. Sau đó
vào lúc 8 giờ 15 ngài đi xe đến phi trường Balice cách đó 16 cây số để lấy trực
thăng quân sự bay đến Oswiecim cách đó 30 cây số. Máy bay đã tới nơi sau nửa giờ
bay.
Đón tiếp ĐTC có
ĐC Roman Pindel, GM Bielsko Zywiec, và ông thị trưởng thành phố. ĐHY Kurt Koch,
Chủ tịch Hội Đồng Toà Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô, cũng theo đoàn tuỳ tùng
trong cuộc viếng thăm này.
Oswiecim là một
trong những thành phố lâu đài cổ xưa nhất Ba Lan, nằm gần sông Sola, có gốc gác
hồi thế kỷ XII, và có biểu tượng là lâu đài trên đồi, ngày này là một viện bảo
tàng. Lịch sử của thành phố này bị ghi dấu bởi các biến cố thê thảm của Đệ Nhị
Thế Chiến. Tại đây quân đức quốc xã đã xây dựng trại tàn sát lớn nhất trong lịch
sử nhân loại: đó là trại tập trung Auschwwitz Birkenau, nơi có hơn một triệu một
trăm ngàn người bị giết trong các năm 1940-1945. Ngày nay thành phố có hơn 40
ngàn dân cư, là trung tâm của nhiều sáng kiến hoà bình và nơi gặp gỡ của con
người thuộc nhiều quốc tịch và tôn giáo khác nhau. Năm 1998 Liên Hiệp Quốc đã tặng
nó tước hiệu “Sứ giả hoà bình”. Giáo phận Bielsko-Zywiec là một trong bốn giáo
phận thuộc tổng giáo phận Cracovia, có hơn 800 ngàn dân cư, 90% theo Công
Giáo và 80 ngàn theo các tôn giáo khác. Giáo phận gồm 210 giáo xứ với 525 linh
mục triều, 121 linh muc dòng, 136 tu huynh, 450 nữ tu và 69 đại chủng sinh.
Giáo phận điều khiển 32 học viện giáo dục và 11 trung tâm bác ái.
https://www.youtube.com/watch?v=xb8B17u7Mb0
(117phút)
Lúc 9 giờ 20
phút ĐTC đi xe đến viện bảo tàng Auschwwitz cách đó 700 mét.
** Ngược dòng lịch
sử ngày mùng 1 tháng 9 năm 1939 quân đức quốc xã xâm lăng Ba Lan và đổi tên
Oswiecim thành Auschwitz, và thành lập trại tâp trung gần thành phố. Mười bẩy
ngày sau hồng quân Liên Xô tiến chiếm nửa còn lại của Ba Lan. Trại tập trung hoạt
động từ ngày 14 tháng 6 năm 1940 đến ngày 27 tháng giêng năm 1945 và gồm ba phần:
Auschwwitz I có các dẫy nhà bằng gỗ cũ kỹ, Birkenau hay Auschwwitz II và khoảng
40 trại phụ thuộc gần các nhà máy và các nông trại của Đức. Trong thời gian đầu
quân đức quốc xã tàn sát 150.000 tù nhân chính trị gồm các thành phần ưu tú của
xã hội Ba Lan. Với thời gian họ cũng bắt đầu gửi vào trại các tù nhân thuộc các
nước khác và từ mùa xuân năm 1942 quân đức quốc xã bắt đầu tàn sát hàng
loạt người Do thái. Chính tại đây đã có hơn 1 triệu người Do thái bị giết, 23
ngàn người Rom, 15 ngàn tù nhân chiến tranh liên xô và hàng ngàn người thuộc
các quốc tịch khác. Trong số các vị tử đạo tại Auschwitz có cha Massimiliano
Maria Kolbe và thánh nữ Teresa Benedetta Thánh Giá Edith Stein, gốc do thái.
Ngày giải phóng
trại tập trung Suschwitz 27 tháng giêng được Liên Hiệp Quốc tuyên bố là
Ngày Quốc Tế tưởng niệm các nạn nhân cuộc diệt chủng. Ngày 27 tháng 7 năm 1947
chính quyền Ba Lan quyết định duy trì khu vực của trại tập trung và thành lập
viện bảo tàng quốc gia Auschwwitz-Birkenau trên một vùng rộng 191 mẫu. Năm 1979
Liên Hiệp Quốc đưa nó vào trong danh sách của “Gia tài nhân loại”. Cho đến nay
đã có hơn 30 triệu người viếng thăm viện bảo tàng này. Năm 2000 chính quyền Ba
Lan đã cho thành lập Uỷ ban quốc tế gồm 22 thành viên thuộc nhiều nước khác
nhau để bảo trợ các hoạt động kỷ niệm của khu vực này.
Vài tháng sau
khi Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt, có một nhóm cựu tù binh người Ba Lan bắt đầu
phát động việc tưởng niệm các nạn nhân của trại tập trung Auschwitz. Vài người
đến khu vực này thành lập một Hội đồng thường trực của trại tập trung Auschwitz
và cung cấp sự trợ giúp cho hàng ngàn người hành hương kéo nhau đến đây để tìm
dấu vết của các thân nhân, bạn bè bị sát hại, cầu nguyện và tưởng niệm những
người đã bị giết tại các nơi này. Viện bảo tàng Auschwitz Birkenau bao gồm các
khu vực của trại tập trung Auschwitz I tại Oswiecim và trại tập trung Birkenau
Auschwitz II ở Brzezinka và tất cả những nơi khác bao gồm các dụng cụ tàn sát
hàng loạt người Do thái và hơn 150 loại cơ cấu gồm các dinh thự và các nhà gỗ
cho tù nhân, nhà tiêu, dinh thự cho các nhân viên hành chánh và người chỉ huy
trại tập trung, các nhà cho mật vụ đức quốc xã, bàn giấy ghi danh các tù nhân mới
tới, các tháp canh, cổng trại tập trung, vài cây số hàng rào kẽm gai, các con
đường bên trong trại và đường rầy xe lửa. Viện bảo tàng cũng bao gồm những hố
chôn tập thể vài trăm tù nhân bị giết trước khi hồng quân liên xô vào trại tập
trung, hay chết sau khi trại được giải phóng. Nghĩa là tất cả những chứng tích
và các vật dụng tội phạm của Đức Quốc Xã, tiếp tục nghiên một cách khoa học các
dấu tích ấy để trình bầy cho công chúng kết qủa các nghiên cứu này. Nhưng
trước hết trại tập trung Auschwitz Birkenau là một nghĩa trang và một nơi
tưởng niệm, một đài tưởng niệm, một trung tâm giáo dục và tìm hiểu tình trạng của
những người đã bị sát hại tại đây. Từ khi được thành lập đã có hơn 30 triệu người
thuộc hơn 100 quốc gia đến viếng thăm viện bảo tàng. Nơi tưởng niệm cũng bao gồm
các sưu tầm lịch sử, văn khố và bộ sưu tập lớn nhất thế giới các tác phẩm nghệ
thuật dành cho Auschwitz.
** ĐGH Gioan
Phaolô II đã viếng thăm Auschwitz trong chuyến công du Ba Lan lần đầu tiên ngày
mùng 7 tháng 6 năm 1979 và đã cầu nguyện trong căn phòng để đói, nơi thánh
Massimiliano Maria Kolbe đã chết. Trong bài giảng thánh lễ cử hành bên ngoài trại
tập trung hồi đó Đức Gioan Phaolô II đã nói: “Tôi không thể không đến đây như
Giáo Hoàng…Tôi đến một lần nữa để nhìn vào mắt lý do của con người, cùng với
anh chị em, một cách độc lập với niềm tin của anh chị em. Đặc biệt tôi cùng anh
chị em, hỡi những người thân mến tham dự vào cuộc gặp gỡ này, dừng lại
trước tấm bia khắc tiếng Do thái. Bản khắc này gợi lên ký ức của dân tộc mà con
cái bị chỉ định cho sự tiêu diệt hoàn toàn. Trước tấm bia này không ai được
phép đi qua với sự thờ ơ. Auschwitz là một tính sổ với lương tâm nhân loại qua
các bia khắc làm chứng cho các nạn nhân của các dân tộc, mà người ta không chỉ
viếng thăm, mà cũng cần suy nghĩ với sự sợ hãi; suy nghĩ tới điều này là một
trong các ranh giới của thù hận. Auschwitz là một chứng tá của chiến tranh. Chiến
tranh đem theo mình một gia tăng không cân xứng của thù hận, huỷ hoại và tàn
ác”.
Ngày 28 tháng 5
năm 2006 ĐTC Biển Đức XVI cũng đã viếng thăm trại tập trung Auschwitz Birkenau
vào cuối chuyến tông du Ba Lan. Phát biểu trong dịp này ngài nói: “Lên tiếng tại
nơi của sự kinh hoàng, của tội phạm chồng chất chống lại Thiên Chúa và chống lại
con người, chưa từng thấy trong lịch sử, hầu như là điều không thể làm được. Và
nó đặc biệt khó khăn và đè nén đối với một kitô hữu, một Giáo Hoàng đến từ nước
Đức. Trong một nơi như nơi này các lời nói giảm đi, nói cho cùng chỉ còn có một
sự thinh lặng kinh hoàng – một sự thinh lặng là một tiếng kêu nội tâm lên Thiên
Chúa: Lậy Chúa, tại sao Ngài lại thinh lặng? Tại sao Ngài lại đã có thể khoan
nhượng với tất cả điều này? Chính trong thái độ thinh lặng này mà chúng ta cúi
đầu sâu thẳm trong thầm kín trước hàng hàng lớp lớp những người đã khổ đau và bị
giết: tuy nhiên, sự thinh lặng này sau đó lớn tiếng trở thành lời xin tha lỗi,
hòa giải, một tiếng kêu lên Thiên Chúa hằng sống xin đừng bao giờ cho phép một
điều như vậy xảy ra nữa. Đức Gioan Phaolô II đã đến đây như là người con của
dân tộc bên cạnh dân tộc Do thái đã phải khổ đau hơn tại nơi này, nói chung,
trong thời chiến tranh… Hôm nay tôi đến đây như người con của dân tộc Đức, và
chính vì thế tôi phải và có thể nói như ngài: Tôi đã không thể không tới. Tôi
đã phải tới. Nó đã và đang là một bổn phận trước sự thật và quyền lợi của những
người đã khổ đau, một bổn phận trước mặt Thiên Chúa”.
** Cuộc viếng
thăm đã bắt đầu lúc 9 giờ rưỡi. Xe chở ĐTC đã dừng bên ngoài cổng chính của trại
tập trung bên trên có hàng chữ “Lao động khiến tự do”. ĐTC đã được ông giám đốc
Viện bảo tàng tiếp đón. Ngài đi bộ vào bên trong, rồi lên chiếc xe nhỏ chạy
bằng điện để đến Khu số 11. Khi đến sân Gọi, tên là sân nhỏ nơi mật vụ đức quốc
treo cổ các tù nhân, ĐTC đã dừng lại cầu nguyện rồi hôn cây cột gỗ. Đây là nơi
cha Massimiliano Kolbe đã hy sinh nhận chết thế cho một người cha gia đình. Bà
Thủ tướng Beata Maria Szydlo đã đón tiếp ĐTC trước cửa vào khu 11. Ngài đã gặp
11 nạn nhân sống sót của trại tập trung, ôm hôn và nói chuyện với từng người.
Người cuối cùng trao cho ngài một cây nến. ĐTC đã cầm cây nến thắp ngọn đèn dầu
ngài tặng cho trại tập trung và thinh lặng cầu nguyện trước bức tường nơi
quân đức quốc xã đã xử bắn hàng ngàn tù nhân trong hai năm, bằng cách bắn vào đầu
họ rồi lôi xác vào lò hoả thiêu, từ mùa thu năm 1941 đến mùa thu năm 1943. Sau
đó các vụ xử bắn được chuyển qua trại tập trung Birkenau. Bức tường này đã bị
phá nhưng năm 1946 các cựu tù binh của trại đã xây lại.
Sau khi tưởng
niệm các nạn nhân đã bị xử bắn tại đây, ĐTC vào thăm căn phòng nơi cha
Massimilano Kolbe bị bỏ chết đói. Hình phạt bỏ đói được quân đức quốc xã dùng
trong thời gian ban đầu. Các tù nhân được chọn trong nhóm có một người tù bỏ trốn,
bị bỏ chết đói trong các phòng bên duới lòng đất. Cha Kolbe đã chết đói trong
phòng số 18. ĐTC được cha Bề trên tổng quyền và cha bề trên tỉnh dòng
Phanxicô viện tu hèn mọn tiếp đón, rồi ngài xuống các phòng bỏ đói thăm căn
phòng nơi cha Kolbe qua đời.
Ngài đã vào ngồi trên ghế và thinh lặng cầu
nguyện một lúc lâu. Hiện nay có một bản khắc kỷ niệm cái chết hy sinh của ngài,
bên cạnh có một cây nến do Đức Gioan Phaolô II để lại. Trước khi rời khu nhà số
11 ĐTC đã ký tên vào sổ lưu niệm. Ngài viết bằng tiếng Tây Ban Nha: “Lậy Chúa
xin thuơng xót dân Ngài, Lậy Chúa xin tha thứ cho biết bao tàn ác”. Tiếp đến
ĐTC đi xe sang thăm trại tập trung Birkenau cách đó 3 cây số. Trại tập
trung này rộng 175 mẫu và là trại tập trung lớn nhất cũng gọi là Auschwitz II.
Nó được quân đức quốc xã bắt đầu xây năm 1941 trong làng Brzezinka. Dân làng bị
đuổi đi nơi khác và nhà cửa của họ bị tàn phá để lấy chỗ cho trại tập trung. Tại
Birkenau quân đức quốc xã đã xây dựng các hệ thống tiêu diệt tinh vi nhất gồm 4
lò hoả thiêu với các phòng hơi ngạt, 2 phòng hơi ngạt tạm thời trong nhà của
dân. Có khoảng 300 dẫy nhà bằng gỗ và gạch làm nơi ở cho các tù nhân bị trưng dụng
cho lao động và để cho chết dần chết mòn. Vào tháng 8 năm 1944 số tù nhân tại
Birkenau lên tới 100.000 người. Tưởng cũng nên biết rằng trong thời đệ nhị thế
chiến đã có 1.000 linh mục Ba Lan cứu sống người Do thái. Các nữ tu đã cho người
Do thái tá túc trong 300 tu viện và cơ cấu khác nhau trên toàn nước Ba Lan. Hồi
năm 1939 số linh mục tu sĩ Ba Lan là 18.000. Hàng giáo sĩ bị quân đức quốc xã
bách hại một cách có hệ thống, khiến cho 4.000 vị và 6 Giám Mục đã bị nhốt
trong các trại tập trung, và ít nhất có 2.800 vị đã chết.
** Trước đài tưởng
niệm các nạn nhân có 1.000 người gồm thân nhân của các nạn nhân và một số các
tù nhân còn sống sót chờ ĐTC. Đài tưởng niệm này đã được khánh thành năm 1967
giữa lò hoả thiêu số II và số III. Có 426 dự án đã được đề ra. Dự án vĩnh viễn
đã do các kiến trúc sư Ba Lan và Italia thực hiện. Toàn đài tưởng niệm gồm nhiều
lớp, khiến ta nghĩ tới các hòm chôn người chết và các bia mộ, trong khi yếu tố
cao nhất biểu tượng cho ống khói của lò hoả thiêu. Trước đài tưởng niệm có các
tấm bia tưởng niệm bằng 23 thứ tiếng khác nhau của các tù nhân. Bảng tưởng niệm
viết: “Hãy luôn mãi để nơi này là tiếng thét của tuyệt vọng và là một cảnh cáo
cho nhân loại, nơi quân đức quốc xã đã giết chết 1,5 triệu người, phụ nữ, trẻ
em, đa số là người Do thái, đến từ các nước Âu châu. Auschwitz Birkenau
1940-1945”.
Sau khi đi bộ
qua cổng chính, ĐTC đã lên xe chạy bằng điện tiến vào trại. Ngài đã được bà Thủ
tướng và ông giám đốc trại tiếp đón. Một rabbi do thái hát thánh vịnh 130, sau
đó ĐTC đã đến trước các tấm bia thinh lặng cầu nguyện rồi thắp lên một ngọn nến.
Ngài tiếp tục thăm hết các bia tới tấm bia cuối cùng có tên của 25 người được
coi là “Các người công chính của các quốc gia”.