Người Đứng Đầu NIH,
Ông Francis Collins Giành Giải Thưởng Templeton Vì Làm Chứng Cho Đức Tin Và
Khoa Học
Jonah
McKeown
Denver
Newsroom, ngày 20 tháng 5 năm 2020 / 11:10 sáng MT ( CNA ) .- Một nhà
khoa học trên tuyến đầu phát triển vắc-xin COVID-19 hôm nay đã được chọn làm
người nhận Giải thưởng Templeton năm nay, một giải thưởng công nhận những đóng
góp của ông cho sự hiểu biết sâu sắc về tôn giáo thông qua công việc của mình
như là một nhà khoa học.
Tiến
sĩ Francis Collins, giám đốc Viện Y tế Quốc gia (National Institutes of Health - NIH)
và thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Giáo hoàng, nói với CNA rằng làm
việc để phát triển vắc-xin coronavirus là một trong những thách thức lớn nhất
trong sự nghiệp của ông, và những ngày này khi ông không làm việc, ông tìm sự
khuây khỏa trong cầu nguyện và đọc các thánh vịnh.
“Giống
như tất cả các cuộc khủng hoảng, giống như tất cả những lúc đau khổ, đây là một
cơ hội để chúng ta có thể học hỏi và phát triển. Và tôi vui mừng vì tôi
tôn thờ một Thiên Chúa biết rõ về đau khổ”, ông Francis Collins, một Kitô hữu
phái Phúc Âm, nói với CNA.
Các giải
thưởng Templeton, được nhà đầu tư toàn cầu và cũng là nhà từ thiện Sir John
Templeton thành lập vào năm 1972, là một giải thưởng tiền mặt hàng năm trị giá
1,1 triệu bảng Anh (1,3 triệu đô la) cho một người còn sống đã thực hiện được
“một đóng góp đặc biệt để khẳng định chiều kích tâm linh của cuộc sống, dù là
thông qua sự hiểu biết sâu sắc, khám phá hoặc công trình thực tế”.
Thánh
Têrêxa thành Calcutta là người đầu tiên nhận giải thưởng này vào năm 1973.
Trước
khi gia nhập NIH năm 2009, Tiến sĩ Collins đã từng là giáo sư về nội khoa và di
truyền học ở Đại học Michigan, dẫn đầu nghiên cứu phát hiện ra các gen chịu
trách nhiệm cho các bệnh như xơ nang; u xơ thần kinh; Bệnh Huntington[1]; và
hội chứng Hutchinson-Gilford, một dạng lão hóa sớm hiếm gặp.
Năm
1993, ông được bổ nhiệm làm giám đốc Trung tâm quốc gia nghiên cứu bộ gen người,
giám sát Dự án bộ gen người, một hợp tác quốc tế mà năm 2003 đã thành công
trong việc giải trình tự ba tỷ “chữ” DNA trong bộ gen người.
Bây
giờ, Collins đang giám sát sự hợp tác của Viện Y tế Quốc gia (NIH) với một số
công ty dược phẩm và các cơ quan chính phủ để phát triển vắc-xin cho
COVID-19. Ít nhất một loại vắc-xin tiềm năng đã sẵn sàng để bắt đầu thử
nghiệm quy mô lớn vào tháng 7 cùng với những loại vắc-xin tiếp theo khác sớm
đưa vào thử nghiệm, Collins nói với Associated Press tuần trước.
“Tôi
cầu nguyện xin ơn khôn ngoan, xin ơn hướng dẫn, tôi cầu nguyện xin ơn tha thứ
vì đã phạm sai lầm dọc đường đi”, ông Collins Collins nói với CNA.
“Tôi
đã tham gia vào rất nhiều dự án khoa học quy mô lớn trong 30 năm qua, từ việc
tìm kiếm gen cho bệnh xơ nang, đến dự án bộ gen, đến liệu pháp miễn dịch ung
thư; và một cách nào đó, gánh nặng trách nhiệm ở đây là có mặt ở các dự án
đó từng phút, chúng tôi không thể để mất một ngày mà không tiến bộ trong việc
tìm kiếm các phương pháp điều trị, các vắc-xin và các xét nghiệm tốt hơn”.
“Và
ở đây, tôi đang ở trong văn phòng như nhà của mình, hầu như không bao giờ đi ra
ngoài, và có lẽ làm việc 110 giờ một tuần chỉ cố làm mọi thứ tôi có thể làm để
sắp xếp tất cả những nguồn lực đó và cầu nguyện với Chúa xin cho những nguồn lực
đó được sử dụng một cách khôn ngoan để mang lại hy vọng và chữa lành”, ông nói.
Một
minh chứng lý trí cho sự tồn tại của Chúa
Là
người gốc Virginia, Collins được học tại nhà cho đến năm 10 tuổi và học hóa học
ở cấp đại học và sau đại học, lấy bằng cử nhân, tiến sĩ, và sau đó là Tiến sĩ Y
khoa, sau đó ông được ghi danh làm Nghiên cứu sinh về Di truyền học con người ở
Trường Y Yale.
Chuyển
hướng giữa chủ nghĩa bất khả tri sang chủ nghĩa vô thần cho đến năm 27 tuổi,
Collins đã nói rằng ông “rất hạnh phúc với ý tưởng rằng Thiên Chúa không tồn tại
và Thiên Chúa không màng đến tôi”.
“Đó
chính là nơi tôi hiện hữu - nếu ai đó cố nêu ra chủ đề đó [về tôn giáo], tôi sẽ
nhanh chóng gạt bỏ nó và chuyển sang một thứ gì khác, có lẽ bởi vì đã có quá
nhiều trường hợp tôi cảm thấy mình giống như một mục tiêu cho một người nào đó
cố bán đức tin của họ cho tôi”, ông Collins Collins nói.
Collins
chuyển hướng một phần nhờ vào cuốn sách kinh điển Mere Christianity[2]
của CS Lewis[3],
trong đó đưa ra một minh chứng lý trí
cho sự tồn tại của Chúa.
Collins
nói một điều khiến ông chú ý trong các chương mở đầu của cuốn sách là sự kiểm
tra của Lewis về nền tảng của đạo đức, nói cách khác, tại sao lại có một điều vừa
tốt vừa xấu như vậy, và tại sao nó lại quan trọng như vậy?
“Đây
là nơi tôi nghĩ rằng những người vô thần nghiêm khắc nhất thấy mình ở trong
tình trạng lúng túng thực sự”, ông Collins Collins lập luận.
“Vì
nếu họ cố tranh luận rằng những ý tưởng của chúng ta về thiện và ác chỉ là bị
chi phối bởi những áp lực tiến hóa giúp chúng ta sống còn, thì hậu quả cuối
cùng của điều đó là những ý tưởng đó chỉ là những khái niệm hư cấu –tất cả
chúng ta đều bị bịt mắt rồi tưởng tượng ra rằng có một điều vừa tốt và xấu như
thế, và rằng chúng ta nên ngừng chú ý đến điều đó và làm bất cứ điều gì chúng
ta thích. Và ngay cả những người vô thần hăng hái nhất cũng gặp rắc rối với
kết luận đó”.
Hiểu
biết về công trình của Chúa trong tự nhiên
Hôm
nay, Collins thẳng thắn nói về đức tin Kitô giáo của mình. Ông đã viết một
cuốn sách vào năm 2006 với tựa đề “Ngôn ngữ của Thiên Chúa: Một nhà khoa học
trình bày bằng chứng cho niềm tin”, trong đó ông mô tả làm thế nào đức tin tôn
giáo có thể thúc đẩy và truyền cảm hứng cho nghiên cứu khoa học chính xác.
Vào
năm 2007 ông và vợ đã thành lập Quỹ BioLogos phi lợi nhuận, nhằm mục đích thúc
đẩy thảo luận về sự hài hòa giữa khoa học và đức tin Kinh Thánh thông qua các
bài báo, podcast và các phương tiện truyền thông khác.
Collins
cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Giáo hoàng, được Đức Giáo
hoàng Biển Đức XVI bổ nhiệm vào năm 2009.
Mặc
dù Collins cho biết ông chỉ có thể tham dự một cuộc họp của Viện Hàn lâm tại
Vatican kể từ khi được bổ nhiệm, ông mô tả cuộc họp này là một cuộc tập họp hấp
dẫn của các nhà khoa học thực sự đẳng cấp thế giới thuộc nhiều chuyên ngành
khác nhau”.
“Tôi
đã tìm thấy niềm vui trong khả năng kết hợp các triển vọng khoa học và triển vọng
tâm linh đến độ tôi cảm thấy niềm vui ấy thôi thúc tôi chia sẻ”, ông nói.
“Không
phải để biến nó thành một bài diễn thuyết triết học, tri thức quá khô khan,
nhưng để nói về niềm vui mà tôi đã trải nghiệm và nhờ ơn Chúa, biến nó thành khả
năng đọc lời Chúa trong Kinh Thánh và hiểu được công trình của Chúa trong tự
nhiên”.
Đức
tin và đạo đức sinh học
Trong
cuộc đua toàn cầu để phát triển vắc-xin COVID-19, một số người ủng hộ sự sống
và các nhà đạo đức học đã bày tỏ lo ngại rằng trong một số trường hợp, các
nhà khoa học có thể sử dụng mô bào thai của những em bé bị phá thai trong
nghiên cứu của họ.
Một
hướng nghiên cứu được đề xuất, dẫn đầu bởi nhà miễn dịch học Kim Hasenkrug tại
Phòng thí nghiệm Rocky Mountain NIH ở Montana, nhằm mục đích tìm ra phương pháp
điều trị COVID-19 bằng cách cấy mô phổi của thai nhi vào chuột, lây nhiễm cho
chuột bằng các chủng coronavirus tương tự như COVID-19, và thử nghiệm để có được
cách điều trị thành công.
Bộ
Y tế và Dịch vụ Nhân sinh, cơ quan chủ quản của NIH, năm ngoái đã áp dụng lệnh
ngưng hoạt động đối với nghiên cứu mô thai nhi của NIH có nguồn gốc từ các vụ
phá thai có chọn lọc, có nghĩa là nghiên cứu của Hasenkrug sẽ không được tiến
hành trừ phi có thay đổi nào trong đường lối chỉ đạo của NIH.
Các chỉ
đạo mới, được Viện Y tế Quốc gia (NIH) ban hành vào tháng 7 năm 2019, đã
buộc dừng nghiên cứu mới của NIH với mô bào thai bị phá thai và hạn chế tài trợ
cho nghiên cứu “ngoại vi” - nghĩa là các
thí nghiệm được thực hiện bên ngoài NIH - trên mô bào thai bị phá thai. Những
người nộp đơn xin tài trợ tại Viện Y tế Quốc gia (NIH) phải cho biết lý do tại
sao mục tiêu nghiên cứu của họ không thể hoàn thành được bằng cách sử dụng
phương pháp thay thế cho HFT, và phương pháp nào họ đã sử dụng để xác định rằng
không thể sử dụng phương án nào khác.
Về
phần mình, Collins nói rằng ông xem xét câu hỏi liệu việc sử dụng phôi người và
phá thai để nghiên cứu có phải là vấn đề đạo đức hay không là một “vấn đề quan
trọng cần suy nghĩ thận trọng”.
“Tôi
sẽ là người đầu tiên nói rằng chúng ta không nên tạo ra hoặc phá hủy phôi -
phôi người - để nghiên cứu, và chúng ta không nên chấm dứt việc mang thai để
nghiên cứu”, ông Collins Collins nói với CNA.
Collins
khác với giáo lý Công giáo về nghiên cứu liên quan đến phôi đông lạnh.
“Nhưng
nếu có những phôi còn sót lại sau khi thụ tinh trong ống nghiệm - thì hàng
trăm ngàn phôi sẽ không bao giờ được sử dụng cho bất cứ điều gì, chúng sẽ bị loại
bỏ. Tôi nghĩ là đạo đức khi xem xét một số cách thức trong đó việc nghiên cứu
có thể sử dụng thông tin ấy để giúp ai đó”.
“Và
cũng như vậy, nếu có hàng trăm ngàn phôi thai bị loại bỏ vì không có cách nào
khác, thông qua quy trình pháp lý ở đất nước này, chúng ta nên suy nghĩ xem việc
vứt bỏ chúng có đạo đức hơn không hay trong một số trường hợp hiếm hoi nên sử dụng
chúng cho việc nghiên cứu có thể cứu sống con người”.
Tài
liệu của Vatican năm 2008 Dignitatis
personae [4]tuyên
bố rằng “việc lấy tế bào gốc từ phôi người còn sống luôn gây ra cái chết của
phôi và do đó bất hợp pháp nghiêm trọng”.
Tài
liệu đó cũng chỉ trích mạnh mẽ việc nghiên cứu mô bào thai bị phá thai, nhưng nếu
liên quan đến các loại vắc-xin phổ biến - như bệnh thủy đậu và sởi, quai bị và
rubella (MMR) - có nguồn gốc từ các dòng tế bào của trẻ sơ sinh bị phá thai,
Vatican cho biết chúng có thể được sử dụng bởi cha mẹ vì “những lý do nghiêm trọng”
như nguy hiểm đến sức khỏe của con cái họ.
Tài
liệu tiếp tục nêu rõ rằng “mọi người đều có nhiệm vụ biểu lộ sự bất đồng của họ
và yêu cầu hệ thống chăm sóc sức khỏe của họ làm sao để các loại vắc-xin khác sẵn
có”.
Một
ủy ban gồm bốn giám mục Công giáo đã viết một lá thư cho chính quyền Trump
vào tháng Tư, yêu cầu giúp đỡ để đảm bảo rằng người Mỹ sẽ được tiếp cận với các
loại vắc-xin không có liên quan đến phá thai.
Collins
nói rằng ông thấy thú vị khi quan sát bao nhiêu lĩnh vực đạo đức sinh học hiện
đại dựa trên nền tảng Ki-tô giáo-Do thái giáo.
“Thực
tế là chúng ta coi trọng những điều như lòng nhân từ, không ác tâm, nghĩa là, đừng
cố tình làm tổn thương ai đó vì mục đích – như tự trị, như công bằng, như công
lý; Tất cả những nguyên tắc đó xuất phát trực tiếp từ kinh thánh”, Collins
nói.
“Và
cũng vậy, một người thế tục có đạo đức gắn bó với những nguyên tắc đó - và họ sẽ
gắn bó - có thể không có cảm thức giống như tôi về nền tảng mà họ dựa vào, một
loại nền tảng mà đối với tôi là do Thiên Chúa ban cho, rất nhiều”.
Chia
sẻ niềm tin trong phòng thí nghiệm
Collins
nói khi Tổng thống Obama lần đầu tiên đề cử ông làm giám đốc Viện Y tế Quốc gia
(NIH), có một số tiếng nói trên phương tiện truyền thông - đặc biệt là của những
người vô thần nói thẳng - phản đối ý tưởng một Kitô hữu dẫn đầu nỗ lực nghiên cứu
y sinh của quốc gia.
Mặc
dù Collins nói rằng ông chắc chắn tin rằng bất cứ ai làm việc trong ngành khoa
học muốn chia sẻ đức tin của họ với những người khác nên cảm thấy thoải mái khi
làm như vậy, nhưng ông thừa nhận rằng việc ông chia sẻ đức tin của mình một
cách cởi mở trở nên dễ dàng hơn nhiều sau khi ông đã đạt được cấp bậc giáo sư đầy
đủ và lãnh đạo các dự án nghiên cứu cao cấp.
Ông
nói ngay cả trong một môi trường như Viện Hàn Lâm Khoa học Giáo hoàng, được tổ
chức tại Vatican, ông cảm thấy rằng một số nhà khoa học đồng nghiệp của ông miễn
cưỡng nói chuyện cởi mở về niềm tin tôn giáo của họ - có lẽ vì họ thường cảm thấy
họ không thể chia sẻ niềm tin tôn giáo của họ tại các phòng thí nghiệm nơi họ
thường làm việc.
“Tôi
nghĩ, đặc biệt là đối với các thực tập sinh, hoặc giảng viên cơ sở, có một chút
lo lắng hơn về chuyện 'Tôi sẽ được xem xét như thế nào' nếu tôi nói về niềm tin
của tôi vào Chúa. Đó thực sự là một thảm kịch khủng khiếp, bởi vì khi tôi
cố lập luận bằng Ngôn ngữ của Thiên Chúa, những điều này không nên bị xem là đối
kháng, bằng bất cứ cách nào,” ông Collins Collins nói.
Collins
nói rằng nếu ông có thể quay ngược thời gian để nói chuyện với chính bản thân
vô thần 27 tuổi của mình trước kia, ông sẽ khuyến khích chàng trai trẻ đó bắt đầu
suy ngẫm những câu hỏi như: Tại sao lại có thứ gì đó thay vì không có
gì? Có một Thiên Chúa không, và làm thế nào bạn biết là có? Tình yêu
là gì? Vẻ đẹp là gì? Tại sao chúng ta có mặt ở đây?
“Đây
không phải là những câu hỏi mà cách tiếp cận khoa học sẽ trả lời cho bạn được
nhiều đâu”, Collins nói và thêm rằng ông sẽ nói với cái tôi quá khứ của mình:
“Hãy suy nghĩ và xem coi liệu có đáng không, trước khi bạn chết, bỏ ra một ít
phút gẫm suy về những chuyện đó, và xem coi liệu có bất cứ hướng nào khác trả lời
những câu hỏi đó không, ngoài hướng của phòng thí nghiệm khoa học”.
Collins
sẽ nhận giải thưởng Templeton trong một buổi lễ trực tuyến vào cuối năm nay.
https://www.catholicnewsagency.com/
Phê-rô
Phạm Văn Trung, dịch.
[1] ND: là bệnh thoái hóa tiến triển mà nguyên nhân là do tế bào thần kinh trong não mất đi. Kết quả là, có thể trải nghiệm chuyển động không kiểm soát được, rối loạn cảm xúc và suy sụp tinh thần. Bệnh Huntington là một bệnh di truyền.
[2] ND: Ki-tô giáo thuần khiết,
Hoặc http://daminhvn.net/suy-tu-nghien-cuu/co-phai-chua-giesu-la-con-duong-cuu-do-duy-nhat-6692.html
[3] ND: Clive Staples Lewis (29 tháng 11 năm 1898 – 22 tháng 11 năm 1963), được biết đến chủ yếu với tên C. S. Lewis, gia đình và bạn bè thường gọi là "Jack", là một tiểu thuyết gia, thi sĩ, nhà hàn lâm, nhà Trung Cổ học, nhà phê bình văn học, nhà luận văn, nhà thần học giáo dân và nhà biện hộ học Kitô giáo sinh ở Belfast, Ireland.
[4] ND: Huấn thị “Phẩm giá của Con người”.