Giáo
Hội Ba Lan Sắp Có Hai Chân Phước Mới: ĐHY Stefan Wyszyński Và Nữ Tu Elizabeth
Róża Czacka
Không đầy một tháng nữa, vào ngày 12/9,/2021,
Giáo hội Ba Lan sẽ hân hoan cử hành lễ tuyên phong chân phước cho Đức Hồng y
Stefan Wyszyński, một nhân vật vĩ đại của Công giáo vào thế kỷ XX. Cùng được
tuyên phong vào ngày hôm đó ở thủ đô Vác-sa-va sẽ là một nữ tu đồng hương,
không được người ở bên ngoài Ba Lan biết đến nhiều. Đó là nữ tu Elizabeth Róża
Czacka.
Hồng Thủy – Vatican News 22 tháng tám 2021
Đức
Hồng y Stefan Wyszyński, một nhân vật vĩ đại của Công giáo vào thế kỷ XX, người
đã anh dũng chống lại chủ nghĩa cộng sản Ba Lan. Khi được bầu chọn làm Giáo
hoàng, thánh Gioan Phaolô II đã nói: “Sẽ không có Giáo hoàng người Ba Lan nếu
không có Giáo chủ”. Giáo chủ mà ngài muốn nói đến ở đây chính là Đức cố Hồng y
Stefan Wyszyński.
Đức
Hồng y Stefan Wyszyński
Đức
Hồng y Wyszyński sinh ngày 3 tháng 8 năm 1901 tại Zuzela, khoảng 100 km về phía
đông Vác-sa-va, khi Ba Lan vẫn còn nằm giữa Nga, Đức và Áo sau những phân chia
cuối thế kỷ 18 của quốc gia độc lập trước đây. Mẹ của Wyszyński qua đời khi cậu
mới 9 tuổi. Khi mẹ cậu hấp hối, một giáo viên bảo cậu hãy ở lại trường sau giờ
học – khi đó các giáo viên được người Nga gửi đến trong khu vực của cậu – cậu
bé Wyszyński nói rằng cậu không muốn đến một ngôi trường như vậy và vội vàng về
nhà để chào tạm biệt người mẹ yêu quý của mình. Ewa Czaczkowska, tác giả của
cuốn tiểu sử dài 1000 trang về Đức Hồng y Wyszyński, đã viết: “Đó là một dấu
hiệu ban đầu cho thấy sự dũng cảm kiên định của ngài”.
Từ lòng
yêu quý người mẹ trần gian đến người Mẹ thiên quốc
Nhiều
năm sau, trong cuốn sách “Pro Memoria” Đức Hồng yWyszyński đã
viết: “Tôi đã chuyển tất cả tình yêu của mình từ một người mẹ sang một người
Mẹ”; ngài muốn nói đến Mẹ Maria, người mà ngài tin tưởng đã hướng dẫn và bảo vệ
ngài trong những năm bị cộng sản đàn áp. Vào tháng 2 năm 1953, sáu tháng trước
khi Đức Hồng y Wyszyński bị cộng sản bắt, ngài nói: “Tôi đã đánh cược mọi sự
vào Mẹ Maria”.
Câu
chuyện được kể lại trong cuốn sách của Czaczkowska, “Giáo chủ Wyszyński. Tin,
Cậy, Mến.” Tác giả lưu ý rằng Đức Gioan Phaolô II đã nói về mối quan hệ của Đức
Hồng y Wyszyński với Đức Mẹ: “Ngài tìm thấy sự tự do thiêng liêng trong lòng
sùng kính tuyệt đối đối với Đức Trinh Nữ Maria. Vâng, ngài là một người tự do,
và ngài đang dạy chúng tôi, những người Ba Lan, sự tự do thực sự”.
“Chỉ có
Chúa, qua Mẹ Maria”
Đức
Hồng y Wyszyński được thụ phong linh mục tại Ba Lan dưới thời Đức chiếm đóng và
phải sống đời linh mục của mình cách âm thầm. Trong cuộc nổi dậy Vácsava năm
1944, ngài làm tuyên úy quân đội và do đó giúp ban các bí tích sau cùng cho
những người sắp chết. Sau chiến tranh, ngài được bổ nhiệm làm giám mục của
Lublin vào năm 1946 và được Đức Giáo hoàng Piô XII thăng Hồng y vào năm 1953
khi đang bị cầm tù.
Đức
Hồng y Wyszyński là một vị tử đạo dưới thời cộng sản. Ngài đã là Giáo chủ của
Ba Lan khi ngài bị chế độ giam giữ ba năm, bị giam giữ ở ba địa điểm khác nhau.
Ngài thường xuyên bị theo dõi và bị giam giữ trong điều kiện khắc nghiệt; mùa
đông khắc nghiệt ở miền đông Ba Lan vào thời điểm đó khiến sức khỏe của ngài
suy giảm nghiêm trọng.
Tác giả
Czaczkowska viết: “Ngài không bao giờ phàn nàn, và không bao giờ nói xấu về
những kẻ áp bức ngài. Ngược lại, ngài cầu nguyện mỗi ngày cho Bolesław Bierut”,
tổng thống Ba Lan lúc bấy giờ. Đức Hồng y Wyszyński kể lại rằng một ngày sau
cái chết của tổng thống Bierut vào năm 1956, vị tổng thống quá cố đã đến với
ngài trong một giấc mơ, điều này khiến ngài hết lòng cầu nguyện cho linh hồn
của ông.
Khẩu
hiệu giám mục của Đức Hồng y là “Soli Deo” - “Chỉ có Chúa”, và
ngài đã thêm vào khẩu hiệu này “per Mariam” - “qua Mẹ Maria”.
Tác giả Czaczkowska viết rằng Đức Hồng y đã biến đền thánh Jasna Góra, đền
thánh Đức Mẹ Đen của Częstochowa, thành ngôi nhà thiêng liêng, và đã viếng đền
thánh 136 lần.
Đức
Hồng y Wyszyński được biết đến là người luôn dành thời gian cho mọi người; ngài
nói rằng “thời gian là tình yêu”. Tác giả Czaczkowska cho biết, có một lần ngài
đã thương lượng với Władysław Gomułka, lãnh đạo Đảng Cộng sản Ba Lan, trong 11
giờ để đạt được một số tự do cho Giáo hội.
Người
bạn trung thành của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II
Là một
nhân vật có ảnh hưởng ở mức độ quốc gia, Đức Hồng y Wyszyński cũng là một người
bạn trung thành của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Bất chấp sự khác biệt, hai
người cùng nhau chiến đấu chống lại chủ nghĩa cộng sản ở đất nước Ba Lan. Đức
Hồng y hiện diện trong mật nghị bầu Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II. Ngài cũng
được biết đến vì đã thánh hiến Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II cho Đức Trinh Nữ
Maria, khi Đức Gioan Phaolô II đang ở giữa sự sống và cái chết sau khi bị bắn
vào tháng 5 năm 1981. Đức Wojtyła rất thân thiết với Đức Hồng y Wyszyński, thậm
chí thỉnh thoảng đi nghỉ hè cùng ngài.
Án
phong chân phước cho Đức Hồng y được bắt đầu vào năm 1989. Ngày 4/10/2019 Toà
Thánh đã nhìn nhận một phép lạ nhờ lời chuyển cầu của Đức Hồng y. Lễ tuyên
phong chân phước cho ngài được dự định vào ngày 7/6 năm ngoái nhưng do đại
dịch, đã phải hoãn lại. (Crux 14/08/2021)
Nữ tu
Elizabeth Róża Czacka
Mẹ
Elizabeth Róża Czacka là một nữ tu với một đời âm thầm phục vụ những người mù.
Tại sao Giáo hội Ba Lan chọn tuyên phong nữ tu Czacka cùng ngày với Đức Hồng y
Wyszyński trong cùng một ngày? Sơ Angelica Jose, người chịu ảnh hưởng sâu sắc
bởi Mẹ Elizabeth Róża Czacka, đã trả lời cho câu hỏi này.
Khi còn
là sinh viên, sơ Angelica tình cờ đọc được tập sách nhỏ do dòng Mẹ Czacka thành
lập xuất bản và sơ rất xúc động trước bức ảnh Mẹ Czacka chụp cùng một cậu bé
mù. Sơ Angelica Jose nhớ lại: “Bị cuốn hút bởi đặc sủng của hội dòng - phục vụ
cho những người mù về thể chất và tâm linh - tôi đã dừng việc học của mình tại
Đại học Khoa học về Sự sống ở Poznań và gia nhập dòng. Điều làm tôi thích thú
về Mẹ Czacka chính là niềm đam mê mãnh liệt của Mẹ dành cho cuộc sống, dành cho
Chúa - phục vụ người mù, sự dũng cảm của Mẹ trong việc chấp nhận đau khổ và
thực tế cuộc sống, và sự tin tưởng của Mẹ vào sự Quan phòng của Thiên Chúa”.
Tông đồ
giữa những người khiếm thị
Róża
Czacka sinh ngày 22 tháng 10 năm 1876 tại Bila Tserkva, một thành phố từng nằm
trong Vương quốc Ba Lan và được gọi là Biała Cerkiew nhưng ngày nay nằm ở miền
trung Ucraina. Czacka là con thứ sáu trong số bảy người con của một gia đình
quý tộc. Sau đó cô cùng gia đình chuyển đến Vác-sa-va, nơi nữ bá tước trẻ học
chơi piano, cưỡi ngựa và nói tiếng Anh, Đức và Pháp. Trong suốt thời thơ ấu của
mình, Czacka bị các vấn đề về mắt. Ở tuổi 22, cô trở về dinh thự của gia đình ở
Ucraina để nghỉ hè. Trong khi cưỡi ngựa, cô bị ngã và bị mù. Những người thân
của cô đã rất đau khổ để chấp nhận tình trạng của cô.
Czacka
chuyên tâm học chữ nổi Braille, cũng như đi khắp châu Âu để tìm hiểu hơn về
chứng mù lòa. Cô mơ ước thành lập một tổ chức có thể giúp những người mù không
chỉ hòa nhập vào cộng đồng rộng lớn hơn mà còn phục vụ như những tông đồ giữa
những người khiếm thị. Năm 1911, Czacka thành lập Hiệp hội chăm sóc người mù.
Sơ Angelica Jose cho biết rằng Czacka đã điều chỉnh chữ nổi Braille sang tiếng
Ba Lan, phát triển một hệ thống giáo dục người mù, và tìm cách thông báo cho
công chúng về bệnh mù lòa thông qua các bài báo và chương trình phát thanh.
Thành
lập dòng chăm sóc người mù
Năm
1915, Czacka đến Ucraina để ở hai tuần với anh trai Stanisław. Cuối cùng cô đã
ở đó ba năm bởi vì Chiến tranh thế giới thứ nhất khiến cô không thể trở về
Vác-sa-va. Cô dành thời gian để cầu nguyện và suy tư. Được gia nhập Dòng Ba
Phanxicô, Czacka mặc tu phục dòng Phanxicô và nhận tên tu sĩ là Elisabeth,
tuyên khấn trọn đời vào ngày 15 tháng 8 năm 1917.
Năm
sau, sơ Elisabeth trở lại Vác-sa-va, và tại đây sơ đã thành lập Dòng các nữ tu
Phanxicô Nữ tỳ Thánh Giá. Dòng tu mới có ba mục đích: chăm sóc người mù về thể
chất, phục vụ người mù tâm linh, và đền bù tội lỗi về mù tâm linh của thế giới.
Năm
1922, các nữ tu được cấp một mảnh đất nhỏ ở Laski, một ngôi làng cách Vác-sa-va
gần 20 km về phía tây. Cùng với linh mục Władysław Korniłowicz, Mẹ Czacka đã
thành lập một dự án tên là Triuno. Tên gọi này không chỉ ám chỉ đến Thiên Chúa
Ba Ngôi, mà còn liên quan đến sự hợp nhất giữa ba nhóm người cộng tác tại Laski
- người mù, các nữ tu và giáo dân - cũng như ba mục tiêu của công việc: giáo
dục, tông đồ và bác ái.
Sơ
Angelica Jose giải thích rằng danh tiếng của Laski đã phát triển thành trung
tâm của một nền linh đạo mới kết hợp các yếu tố của các dòng Phanxicô, Đa Minh
và Biển Đức. Cộng đoàn được biết đến với tinh thần đơn sơ, lòng sùng kính đối
với giáo huấn của Thánh Tôma Aquinô, và tình yêu phụng vụ.
Tình
bạn với Đức Hồng y Stefan Wyszyński
Một
linh mục trẻ là cha Stefan Wyszyński đã đến thăm Laski vào năm 1926, theo lời
mời của cha Korniłowicz. Vị giáo chủ tương lai của Ba Lan đã gặp Mẹ Czacka và
gắn bó rất nhiều với công việc tại Laski. Ngài đã giúp xây dựng một nhà tĩnh
tâm, tổ chức “Tuần lễ Người mù” vào năm 1936, và gây quỹ cho Hiệp hội chăm sóc
người mù. Ngài cũng có các bài giảng về khoa học xã hội, luật pháp và lịch sử
Giáo hội cho người mù, cho các nữ tu và nhân viên giáo dân. Ngài đã làm việc
với Mẹ Czacka về hiến pháp của hội dòng.
Trong
Cuộc nổi dậy Vác-sa-va năm 1944, Mẹ Czacka và cha Wyszyński đã giúp tổ chức một
bệnh viện dã chiến cho những người bị thương ở Laski. Sau chiến tranh, cha
Wyszyński được bổ nhiệm làm tổng giám mục của Gniezno và Warsaw, nhận tước hiệu
Giáo chủ Ba Lan, còn Mẹ Czacka tiếp tục theo đuổi sứ mạng của mình, nhưng sức
khỏe của Mẹ ngày càng giảm sút trong suốt những năm 1950.
Sơ
Angelica Jose cho biết: “Cho đến cuối cuộc đời của Mẹ Elisabeth, Đức Hồng Y
Stefan Wyszyński đã quan tâm, yêu thương, và giúp đỡ đặc biệt cho Mẹ, đặc biệt
là trong những ngày cuối đời của Mẹ. Ngài đã đến thăm Mẹ Czacka lần cuối vài giờ
trước khi Mẹ qua đời vào ngày 15 tháng 5 năm 1961, và chủ sự Thánh lễ an táng
vào ngày 19 tháng 5 năm 1961”.
Trong
một bài giảng vào Thứ Bảy Tuần Thánh năm 1963, Đức Hồng y Wyszyński nhớ lại
tình bạn của ngài với Mẹ Czacka và cha Korniłowicz. Ngài nói: “Tôi không bao
giờ cầu nguyện cho Mẹ Czacka, tôi chỉ cầu nguyện với Mẹ, và tôi không bao giờ
cầu nguyện cho cha Korniłowicz - tôi cầu nguyện với cha… điều đó giúp ích vô
cùng. Vì vậy, hãy nhớ rằng, cả hai người đều chắc chắn ở trong vinh quang của
Chúa Cha toàn năng”. (CNA 15/07/2021)