Vài Điểm Quan Trọng Cho Việc Chuẩn Bị Và Cử Hành Bí Tích Hôn Nhân
I. CHUẨN BỊ
CHO NGÀY LỄ
Những người sắp kết hôn chắc chắn phải trải qua những bước
chuẩn bị và sắp xếp cần thiết (xa, gần, ngay trước lễ cưới) trước khi tiến vào
nhà thờ để cử hành phép hôn phối hầu có thể đón nhận một cách trọn vẹn hơn ân
sủng của bí tích này (GLCG 1632; FC 66).
1] Về phía đôi hôn nhân
Là người giữ vai trò thừa tác trong cử hành mầu nhiệm hôn
nhân, đôi hôn phối phải tiếp cận và làm quen với những lễ nghi, những kinh
nguyện và các bài đọc Sách Thánh để họ có thể cử hành cách ý thức và hữu hiệu
(NTHN 17). Chẳng hạn:
• Có thể dành ra một thời gian trước ngày cử hành thánh lễ
hôn phối để tĩnh tâm, cầu nguyện, ăn chay, xưng tội, thường xuyên rước lễ để
luôn được sống trong tình trạng ân sủng;
• Chọn hai vị nhân chứng cần thiết cho nghi lễ (GLCG
1108);
• Thực tập nghi lễ hôn nhân sẽ cử hành;
• Chọn những Bài đọc Sách Thánh, và căn cứ vào đó để linh
mục dọn bài giảng (FC 67);
• Chọn hình thức đôi bên tỏ bày sự ưng thuận;
• Chọn công thức làm phép nhẫn, những ý nguyện của Lời
nguyện Chung và các bài hát (NTHN 29);
• Chào đón bạn bè, gia đình, họ hàng thân thuộc và những
vị khách khác ở cửa nhà thờ.
2] Về phía linh mục
Trong những cuộc gặp gỡ và bàn thảo với đôi hôn phối trước
khi thành hôn, linh mục có nhiệm vụ:
• Tổ chức những khóa giáo lý tiền hôn nhân nhằm giúp họ
hiểu rõ giáo huấn của Giáo Hội về hôn nhân, giúp họ biết làm thế nào để vợ
chồng sống chung với nhau một cách hạnh phúc, đào sâu mối tương quan thiêng
liêng với nhau cũng như đảm nhận tốt nhất vai trò làm cha làm mẹ và làm vợ làm
chồng trong tương lai (NTHN 1-11; 14; 17) cũng như khám phá lại đức tin, nuôi
dưỡng đức tin và đưa đức tin đến chỗ trưởng thành vì bí tích này đòi hỏi đức
tin (NTHN 16; FC 7. 68). Ngoài ra, nên trang bị thêm cho họ những hiểu biết về
y khoa, tâm – sinh lý và tâm linh cần thiết để họ có thể “trung thành gìn giữ
và bảo vệ giao ước hôn nhân, hầu có thể sống cuộc sống gia đình mỗi ngày cách
thánh thiện và trọn hảo hơn (NTHN 14);
• Cho họ chịu phép thêm sức (nếu chưa lãnh nhận); khuyên
họ chuẩn bị tâm linh để lãnh nhận bí tích qua cầu nguyện và thống hối (GLCG
1621-1662), dọn mình xưng tội hầu có thể rước Thánh Thể trong chính lúc cử hành
bí tích hôn phối (NTHN 18).
• Giúp họ làm quen với nghi thức bí tích hôn phối một cách
chi tiết, đặc biệt là bản văn nghi thức bằng cách trao cho họ các bản sao chép
nghi thức và tiến hành tập nghi thức vào những ngày trước khi cử hành hôn lễ để
họ có thể hiểu sâu hơn giá trị của nghi thức cũng như tránh tình trạng các
đương sự bị bối rối và sai sót khi đang cử hành nghi lễ (GLCG 1632). Việc tập
nghi thức nên có sự hiện diện của cả đôi hôn nhân và những người làm chứng.
• Không chỉ tiến hành rao hôn phối mà còn mời gọi các tín
hữu tham dự bằng cách thông báo cho giáo dân biết về ngày giờ cử hành bí tích
hôn phối vì thánh lễ hôn phối không phải là một biến cố chỉ liên hệ tới những
người kết hôn nhưng là một ngày lễ liên kết các gia đình và bạn hữu (FC 68).
Bởi lý do này mà sách “Nghi thức cử hành hôn nhân” hướng dẫn: “Tùy tập
tục địa phương và hoàn cảnh, có thể cử hành nhiều đôi hôn phối một lần hoặc cử
hành trong những buổi hội họp ngày Chúa nhật” (NTHN 28) để cộng đoàn có thể
hiện diện.
• Nếu cử hành hôn lễ vào ngày mang tính chất sám hối, đặc
biệt là Mùa Chay, cha sở nên nói cho đôi tân hôn biết trước tính chất riêng
biệt của ngày đó. Phải tuyệt đối tránh không nên cử hành hôn phối vào thứ Sáu
và thứ Bảy Tuần Thánh (NTHN 32).
3] Về phía cộng đoàn giáo xứ
• Dưới ánh sáng của Công đồng Vatican II, cử hành hôn phối
không phải là cử hành riêng tư của cô dâu chú rể hay của gia đình họ nhưng là
một hành vi phụng tự công cộng của toàn thể gia đình giáo xứ (Giáo Hội địa
phương) vì họ thuộc về cộng đoàn này. Qua đó, đôi hôn nhân cử hành bí tích hôn
phối với cộng đoàn đức tin, họ hiệp thông với Chúa cũng như với toàn thể Giáo
Hội. Đây là dịp quan trọng cho cả đôi hôn nhân lẫn cho cả cộng đoàn và cần phải
lôi cuốn cả cộng đồng Kitô hữu tham dự vào biến cố Hội Thánh cử hành quyền năng
cứu độ của Thiên Chúa trong đời sống của những người chọn bậc sống này (FC 67).
Vì thế lễ cưới phải mang tính cộng đồng, nghĩa là cộng đoàn giáo xứ cố gắng
tham dự càng nhiều càng tốt, ít là một số thành viên (NTHN 28) và nên cử hành
vào Chúa nhật (NTHN 28; Tông Thư Ngày của Chúa, số 35-41) cộng đoàn có thể hiện
diện.
• Toàn thể cộng đoàn sẽ hỗ trợ cho đôi hôn nhân hoàn thành
ơn gọi làm người và nên thánh trong bậc gia đình của họ bằng lời cầu nguyện,
lời khuyên, gương sáng, chuẩn bị lễ cưới (hoa nến, sách hát, âm thanh ánh
sáng…), mọi người đang hiện diện tham dự vào thánh lễ cách trọn vẹn, tích cực
và có trách nhiệm tùy theo chỗ đứng và vai trò của mình: đôi bạn, linh mục, các
nhân chứng, cha mẹ, bạn hữu, các tín hữu khác (người giúp lễ, độc viên Sách
Thánh, thừa tác viên Thánh Thể ngoại thường…), nói tắt là mọi thành phần của
một cộng đoàn đang biểu lộ và sống mầu nhiệm Đức Kitô và của Hội Thánh Ngài (FC
67).
4] Chọn bài hát
Khi chọn bài hát cho thánh lễ hôn phối, nên nhớ rằng chúng
phải phù hợp với chủ đề bí tích hôn nhân và diễn tả niềm tin của Giáo Hội. Cũng
nên để ý tới tầm quan trọng của Thánh vịnh Đáp ca trong phần Phụng vụ Lời Chúa.
Điều nói về các bài hát, cũng áp dụng cho việc chọn lựa các bài nhạc đệm (NTHN
30). Nên để cho cộng đoàn tham dự vào âm nhạc càng nhiều càng tốt bằng những
bài hát cộng đồng.
5] Môi trường phụng vụ
Tốt nhất, cử hành bí tích hôn phối diễn ra tại nhà thờ
giáo xứ của cô dâu hay của chú rể. Trong việc trang trí thánh đường cho
ngày lễ cưới, nên thể hiện một cách thích đáng. Sắp xếp chỗ ngồi không nên có
sự phân biệt nào khác cho các cá nhân hay những giai cấp xã hội (NTHN 31; PV
34). Chỗ của cô dâu chú rể nên được sắp xếp thế nào để cộng đoàn có thể hoàn
toàn nhìn thấy các nghi thức phụng vụ mà không bị che chắn tầm nhìn khi hướng
tới bàn thờ cũng như cộng đoàn có thể nhìn thấy được cả khuôn mặt của cô dâu
chú rể suốt trong phần Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể chứ không chỉ
thấy lưng của họ mà thôi. Vì thế, tốt nhất là ghế ngồi và bàn quỳ cho họ nên
đặt trong cung thánh, phía bên phải bàn thờ, ngồi theo hướng ngang như những
người giúp lễ. Từ đây, cô dâu chú rể có thể hướng vào bàn thờ, nhìn thấy giảng
đài và những nơi khác nữa hầu giúp họ tham dự vào cử hành phụng vụ một cách
“trọn vẹn, ý thức và tích cực” (PV 14). Tới phần nghi thức hôn phối, để mọi
người có thể dễ dàng nghe thấy và nhìn thấy hành vi tỏ bày sự ưng thuận và xỏ
nhẫn của họ, đôi hôn phối và hai người làm chứng nên ra đứng phía trước bàn thờ
hay lối giữa nhà thờ.
Mỗi giáo xứ nên có quy định rõ ràng cho hoạt động quay
phim chụp hình, trong đó nêu rõ ít là ba vấn đề: i] Người quay phim chụp hình
phải hạn chế hết mức việc di chuyển; ii] Trong khi tác nghiệp, không làm chia
trí người tham dự, không che chắn và gây cản trở các hành vi phụng vụ; iii] Cấm
người người nhà nhà tự phát dùng máy chụp hay smartphone riêng quay phim chụp
hình.
6] Năm phụng vụ
Không được cử hành lễ cưới vào thứ Sáu và thứ Bảy
Tuần Thánh (NTHN 32). Có thể cử hành lễ cưới vào những ngày khác trong năm
nhưng nếu cử hành vào các Chúa nhật mùa Vọng, mùa Chay, mùa Phục sinh, các ngày
lễ trọng, bát nhật Phục sinh, lễ cầu cho các tín hữu qua đời (02-11), thứ Tư lễ
Tro và Tuần Thánh thì phải chọn bản văn phụng vụ (bài lễ và bài đọc Sách Thánh)
theo những ngày lễ đó, chỉ giữ lại lời nguyện chúc hôn, và tuỳ nghi, cũng có
thể giữ lại công thức ban phép lành riêng cuối lễ. Nếu cử hành lễ nghi hôn phối
trong thánh lễ dành cho cộng đoàn vào Chúa nhật mùa Giáng sinh và Thường niên,
thì cũng phải cử hành lễ Chúa nhật (NTHN 54-56).
II. CỬ HÀNH HÔN
PHỐI
1] Tiếp đón - Cuộc rước đầu lễ
Trước hết, cần nhớ rằng phụng vụ lễ cưới không phải là một
buổi trình diễn và không được xây đắp bởi vẻ hào nhoáng lộng lẫy bên ngoài;
khách mời cùng những người tham dự không phải chỉ như là khán thính giả hay
người quan sát. Trái lại, lễ cưới chính là buổi quy tụ nhằm mục đích cầu nguyện
và phụng tự. Đó là buổi cử hành tình yêu Thiên Chúa của toàn thể cộng đồng quy
tụ chung quanh đôi hôn nhân để cầu nguyện cho họ, để ủng hộ sự cam kết của họ
và làm chứng sự hợp nhất của họ. Tình yêu của Ngài được tỏ lộ trong lễ cưới qua
tình yêu và sự dấn thân của đôi hôn nhân mà Thiên Chúa sẽ kết hợp nên một qua
nghi lễ hôn nhân.
Thông thường, linh mục chủ sự sẽ chào đón đôi vợ chồng
tương lai ở cửa nhà thờ như một địa điểm thể hiện tình cảm yêu thương và hân
hoan chào đón họ. Tuy đây không phải là nghi thức bắt buộc, nhưng là một việc
rất tự nhiên, đầy thiện cảm, mang nặng tình người, nhất là tạo cho đôi hôn nhân
cảm thấy mình có giá trị và được tôn trọng. Linh mục hãy chào hỏi họ cách lịch
sự và thân thiện, tỏ cho họ thấy rằng Giáo Hội muốn chia sẻ niềm vui với họ. Từ
cửa nhà thờ, cuộc rước đi vào nhà thờ được bắt đầu, luôn luôn để cho đôi hôn
nhân đi chung với nhau bởi vì nó vừa tạo ra sự bình đẳng vừa cho biết đôi hôn
nhân đang tiến vào nhà thờ như thừa tác viên chính của bí tích hôn nhân (NTHN
45-50). Có thể sử dụng thánh giá + đèn hầu (nến cao) đi đầu cuộc rước và tiếp
theo là Sách Tin Mừng đi trước linh mục chủ tế (chứng hôn).
Lời chào đầu lễ của linh mục nên mở rộng ra tất cả mọi
người hiện diện, đặc biệt là những anh chị em đến từ địa phương khác và thuộc
những tôn giáo khác nhau (NTHN 24; 51-52). Trong thánh lễ hôn phối, luôn
luôn bỏ phần Nghi thức Sám hối (NTHN 53).
2] Phụng vụ Lời Chúa
Phần Phụng vụ Lời Chúa luôn gồm 3 bài như trong ngày lễ
Chúa nhật và lễ trọng. Phụng vụ Lời Chúa giúp cho người tham dự nhận thức được
sự hiện diện của Đức Kitô trong nghi thức bí tích sẽ được cử hành sau đó và
được công bố trước hết cho đôi hôn phối. Mặt khác, Bất cứ một cử hành phụng vụ
nào cũng đều là buổi cử hành và là một biến cố của toàn thể gia đình Giáo Hội
chứ không phải của riêng một gia đình nhỏ bé nào hay của một cá nhân nào. Hơn
nữa, đôi hôn phối chính là người nắm giữ vai trò thừa tác trong cử hành mầu
nhiệm hôn nhân. Vì thế, chính đôi vợ chồng tương lai nên được tạo cơ hội chọn
lựa Bài đọc Sách Thánh [trong số 8 Bài đọc Cựu Ước; 7 Thánh vịnh Đáp ca; 10 Bài
đọc Tân Ước và 10 Bài Tin Mừng] sẽ công bố chứ không đích thân lên đọc để qua
lời công bố và giảng giải của thừa tác viên Giáo Hội, họ có thể lắng nghe và
hiểu biết Lời Chúa một cách hiệu quả hơn. Tức là nên ưu tiên để cho các
độc viên Sách Thánh của giáo xứ thi hành chức năng của họ (NTHN 54-56;
179-222).
Trong bài giảng, linh mục không nên tán dương đôi hôn nhân
mà nên đề cập đến những điểm sau: Mầu nhiệm hôn nhân Kitô giáo; Phẩm giá của
tình yêu hôn nhân; Ân sủng của bí tích hôn phối; Trách nhiệm của những người đã
thành hôn.
Nên mời cô dâu và chú rể loan báo vài ý nguyện trong phần
Lời nguyện Tín hữu (NTHN 69; 251-252) sau khi họ đã trrao nhẫn cho nhau (NTHN
66-68).
3] Cử hành hôn phối
Nghi thức hôn nhân diễn ra tiếp theo phần Phụng vụ Lời
Chúa (sau bài giảng). Chuẩn bị và sử dụng micro thế nào để cộng đoàn không
những có thể nghe thấy rõ lời của vị chứng hôn mà còn của cả đôi hôn nhân. Việc
trả lời ba câu hỏi của vị chủ sự trước sự hiện diện của cộng đoàn, của hai nhân
chứng (GLCG 1108), nhất là trước mặt linh mục, vị đại diện của Giáo hội, nhằm
nói lên sự nhận thức và hiểu biết của họ về đời sống hôn nhân cũng như bày tỏ
họ đang trong tình trạng tự do để kết hôn.
Cô dâu chú rể cầm lấy tay phải của nhau và nói lên lời ưng
thuận [vốn là trọng tâm, là nghi thức chính yếu của bí tích hôn nhân và thiết
lập nên mô thức của bí tích này]. Khi tỏ bày sự ưng thuận này cũng như khi xỏ
nhẫn cho nhau, hai người nên quay mặt vào nhau hơn là quay lưng về phía cộng
đoàn. Tốt nhất, nếu có thể, đôi hôn phối nên học thuộc lòng lời thề ước của họ.
Lời vị linh mục chứng hôn chuẩn y sự ưng thuận của họ nhấn
mạnh đến hành động của Thiên Chúa : “Xin Chúa tò lòng nhân hậu chuẩn y sự ưng
thuận các con (ac, ôb) vừa bày tỏ trước mặt Hội Thánh, và xin Chúa tuôn đổ phúc
lành của Ngài trên các con (ac, ôb). Sự gì Thiên Chúa liên kết, loài người
không được phân ly” (NTHN 64). Câu “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài
người không được phân lý” vừa là lời tuyên bố vừa là lời cầu nguyện diễn tả sự
can thiệp và quan phòng của Thiên Chúa - Đấng củng cố sự ưng thuận của họ và
làm cho sự ưng thuận này được phong phú bằng ân sủng bí tích. Sau câu này, linh
mục mời gọi những người hiện diện bằng câu “Nào ta chúc tụng Chúa”, mọi người
đáp “Tạ ơn Chúa”. Ở đây, có thể dùng một câu tung hô khác (NTHN 64-65). Thay vì
đọc “Tạ ơn Chúa”, cộng đoàn nên hát câu tung hô này nhằm tôn cao việc làm chứng
cũng như sự xác nhận của cộng đồng trước lời cam kết của đôi hôn nhân.
Chiếc nhẫn là biểu tượng cho tình yêu và lòng chung thủy
của cả đôi bên với nhau. Cho nên, sau lời nguyện làm phép nhẫn ngắn (3 mẫu đã
cho nằm trong NTHN 66, 229-230), cô dâu chú rể sẽ xỏ nhẫn vào tay cho nhau, họ
vừa xỏ vừa đọc: “T... xin em (anh) hãy nhận chiếc nhẫn này làm dấu chỉ
tình yêu và lòng chung thủy của anh (em). Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”
(NTHN 67).
Để bày tỏ ý nghĩa hợp nhất phu phụ, sau nghi thức xỏ nhẫn,
có thể sử dụng thêm nghi thức đốt nến chung. Cụ thể là: giúp lễ trao cho cô dâu
chú rể mỗi người một cây nến nhỏ được đốt lên; sau đó hai người dùng cây nến
nhỏ của mình để thắp sáng cây nến lớn như một biểu tượng về việc hai vợ chồng
nên một với nhau. Tuy nhiên phần sáng tạo này không nên làm quá long trọng đến
nỗi áp đảo những biểu tượng hiệp nhất truyền thống trong lễ cưới như việc xỏ
nhẫn cho nhau và cùng nhau lãnh nhận Thánh Thể từ một bánh và một chén.
4] Phụng vụ Thánh Thể
Sau nghi thức hôn phối, đôi vợ chồng mới được mời tham dự
tích cực vào bàn tiệc Thánh Thể bằng cách đi dâng của lễ [bánh rượu] lên bàn
thờ.
Trong Kinh nguyện Thánh Thể, dù đang cử hành bất cứ thánh
lễ nào, tư tế cũng phải cầu cho đôi tân hôn theo công thức ghi tại NTHN
237-239.
Lời nguyện chúc hôn thể hiện niềm hy vọng và lời nguyện
cầu của toản thể Giáo Hội cho đôi hôn nhân và gia đình họ sau này được sống
trong hiệp nhất, yêu thương và hạnh phúc, biết chu toàn nghĩa vụ của mình (làm
vợ- chồng, làm cha- mẹ), tin tưởng nhau, tôn trọng nhau và trung thành với nhau
mãi mãi (NTHN 73-74; 104. 241. 243). Sau Kinh Lạy Cha, bỏ qua kinh “Lạy Chúa
xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ...”, linh mục đứng hướng về phía cô dâu chú
rể, đọc hoặc hát Lời nguyện chúc hôn. Đôi tân hôn có thể tiến lên gần bàn thờ
hay quì tại chỗ dành riêng (NTHN 72-73). Trong khi đọc Lời nguyện chúc hôn,
linh mục nên tiến đến chỗ của hai vợ chồng mới và giơ hai tay trên họ như
trường hợp đọc lời nguyện khác để thánh hiến người.
Sau Lời nguyện chúc hôn, bỏ kinh “Lạy Chúa Giêsu Kitô,
Chúa đã nói với các Tông đồ rằng...” và ban bình an ngay (NTHN 75).
Đôi tân hôn, hai người làm chứng và họ hàng của đôi tân
hôn có thể được rước lễ dưới hai hình (NTHN 76).
5] Nghi thức
kết thúc
Để kết thúc thánh lễ, linh mục ban phép lành trọng thể cho
đôi tân hôn và dân chúng theo công thức riêng (NTHN 77). Nhưng nếu cử hành hôn
phối trong các Chúa nhật và lễ buộc, vị chủ tế tùy nghi đọc lời chúc lành đặc
biệt cuối lễ.
Sau thánh lễ, người ta có thói quen tốt là cô dâu chú rể
đặt những bó bông của mình ở tòa Đức Mẹ, đồng thời đứng ở đây để dâng lên Mẹ
Maria lời kinh tiếng hát mà cầu cho gia đình mới, nhất là cầu cho cô dâu
được trở nên người vợ và người mẹ tốt lành. Tuy nhiên, có lẽ tốt hơn là cậy nhờ
cả lời chuyển cầu của thánh cả Giuse nữa bằng cách cầu nguyện trước cả tòa
thánh Giuse vốn có trong mọi thánh đường hay cầu nguyện với Thánh
Gia.
6] Ký vào sổ hôn phối
Việc ký vào sổ hôn phối có thể diễn ra sau thánh lễ, ở
trong phòng thánh hoặc trên cung thánh trước mặt dân chúng, nhưng không được ký
tên trên bàn thờ (NTHN 117; 151; 178). Tuy nhiên, thời điểm ký sổ sau Lời
nguyện Hiệp lễ tốt hơn là để sau thánh lễ.
Lm. Giuse Phạm Đình Ái, SSS (cgvdt.vn
01&08-/01-2017)
_______________________________________________________
Chữ viết tắt
NTHN = Nghi thức Cử hành Hôn nhân (1991); GLCG = Giáo lý
Hội Thánh Công giáo (1992); FC = Tông huấn Familiaris Consortio (22-11-1981).
Tài liệu tham khảo
Covino, Paul, ed. Celebrating Marriage: Preparing the
Roman Catholic Wedding Liturgy. Oregon: Pastoral Press, 2011.
Klein, Gregory. Pastoral Foundations of the Sacraments.
New York: Paulist Press, 1998.
Mick, Lawrence. Forming the Assemble to Celebrate
Sacraments. Chicago: LTP, 2002.
Phạm, Đình Ái, sss. Khi Ngài rông mở tay ban. Nxb Phương
Đông, 2014.
Smorlarki, Dennis, sj. Seasons, Sacraments, and
Sacramentals. Chicago: LTP, 2003.