Bí Tích Rửa Tội Như Là Một
Sự Tham Gia
Vào Cái Chết Của Chúa Kitô
Được rửa tội trong Chúa Kitô là được rửa tội trong cái chết cũng
như sự Phục Sinh của Ngài.
OWEN VYNER (*)
Nói cho
cùng mùa Phục sinh là thời gian tái sinh, được thể hiện rõ nét nhất trong Đêm Vọng
Phục Sinh bằng dòng nước rửa tội ban sự sống. Tuy nhiên, để thông truyền
cuộc sống mới, phép rửa phải hủy bỏ cuộc sống cũ tội lỗi và những sa ngã ghét bỏ
của chúng ta đối với Chúa Kitô. Đó là lý do tại sao nghi thức rửa tội cho
thấy rõ rằng người được rửa tội là được rửa tội trong cái chết của Chúa Kitô:
“Lạy Chúa, chúng con nài xin Chúa cho sức mạnh Chúa Thánh Thần, nhờ Con Chúa,
xuống trên giếng nước này, để khi mọi người nhờ Bí Tích Rửa Tội, đã được an
táng cùng Chúa Kitô hầu chết cho tội, thì cũng được phục sinh với Người trong sự
sống”. [1] Đây chính là ý nghĩa của việc dìm mình vào trong nước như là một
sự đi xuống cái chết của Chúa Kitô, điều này đã giải quyết một cách hùng hồn những
vấn nạn của những người tìm kiếm ngày nay.
Bài viết
này sẽ tìm cách giải quyết câu hỏi này: việc được rửa tội trong cái chết của
Chúa Kitô mang ý nghĩa gì và điều này biểu lộ ra cho chúng ta như thế nào theo
cách phù hợp với kinh nghiệm hiện tại của chúng ta? Đầu tiên việc rửa tội
sẽ làm điều này bằng cách phân định mối liên hệ giữa bí tích rửa tội và cái chết. Thứ
hai, vì rửa tội được hiểu là một sự dìm xuống, hoặc một descensus[1],
nên nó sẽ xét đến vấn đề Chúa Kitô đi xuống địa ngục như được tượng trưng trong
lễ rửa tội. Cuối cùng, nó sẽ xem xét chiều kích con người trong phép rửa
và các hiệu quả của phép rửa trong đời sống đạo đức của các Kitô hữu.
Nước rửa
tội và sự chết
Đối với
các Kitô hữu tiên khởi, sự hiểu biết thời Cựu Ước về nước trong các sự kiện cứu
rỗi là nền tảng cho biểu tượng của nước trong nghi thức rửa tội. Mặc dù rõ
ràng có mối liên hệ giữa nước và việc tẩy rửa trong Cựu Ước (chỉ cần nghĩ về
Naaman người phong cùi trong quyển thứ 2 Sách Các Vua, đoạn 5), những câu chuyện
về Đại Hồng Thủy và Biển Đỏ cũng tiết lộ rằng nước có liên quan đến sự hủy diệt
và cái chết. Trong câu chuyện về trận lụt, nước là biểu tượng của sự hủy
diệt. Nước là công cụ phán xét mà qua đó Thiên Chúa đã tiêu diệt thế giới
tội lỗi (Sáng thế 6:17). Một ám chỉ chủ yếu khác về bản chất hủy diệt của
nước là việc Thiên Chúa thi hành án xử người Ai Cập và việc Ngài đánh bại quân
đội Ai Cập khi họ vượt qua Biển Đỏ để đuổi theo Môsê và các chi tộc Israel (x.
7: 4-5) .
Trong
các Thánh vịnh, chúng ta chứng kiến một con người, bị chết đuối
dưới vùng nước sâu, đang rất cần sự giải cứu của Chúa: “Tôi lún xuống bùn sâu
hoắm, mà không còn gì để ghì nín lại. Tôi sa vào vực nước sâu, và dòng nước lũ
ngút cả đầu tôi”. (Thánh Vịnh 69: 3). Chúng ta cũng đọc được, “Vực này với
gọi vực kia, giữa tiếng thác của Người ầm vang, hết thảy nước đổ sóng tràn ngập
lút trên tôi”. (Thánh Vịnh 42: 8). Sau đó, số phận của cá nhân đau khổ
này, là người dường như bị bỏ rơi, được cho là quy về Chúa Kitô và tiếng kêu của
Ngài trên Thập giá (Mátthêu 27: 45-46).
Trong Cựu
Ước, vì nước được liên kết với cái chết, nước đồng thời được kết nối với sự chiến
thắng và sự cứu rỗi. Thế giới tội lỗi bị hủy diệt trong Đại Hồng Thủy,
nhưng đồng thời, Nôê được tha thứ, đó là nguyên tắc của sự sáng tạo mới (Sáng
Thế 9: 1-15). Với việc vượt qua Biển Đỏ, có sự chết và sự phán xét, nhưng
cũng có sự chiến thắng của Thiên Chúa đối với Pharaô và sự cứu rỗi của các chi
tộc Israel (Xuất Hành 15: 1). Trong tác phẩm của mình, Kinh thánh và
Phụng vụ, Jean Daniélou lập luận rằng nền tảng của khái niệm chiến thắng qua
vùng biển này là huyền thoại cổ xưa về một con rắn sống dưới đáy biển (Isaia
27: 1; 51: 9- 10). [2] Như vậy, chiến thắng giành được qua vùng biển này cũng diễn ra
sau một cuộc chiến đấu lớn lao với các quyền lực sự dữ.
Trong
Tân Ước, những hình ảnh này: dìm xuống nước, phán xét và chiến thắng thông qua
một cuộc chiến đấu với một sức mạnh to lớn được áp dụng tiên trưng cho việc
đóng đinh của Chúa Kitô. Những câu chuyện về Đại Hồng Thủy và Biển Đỏ được
xem như được hoàn thành nhờ sự cứu rỗi đã hứa của Chúa Kitô trên Thập
giá. Trước tiên, Thánh Phêrô thiết lập mối liên hệ giữa sự cứu rỗi của Nôê
qua nước và chiến thắng của Chúa Kitô đối với cái chết được truyền đạt cho Kitô
giáo qua phép rửa (1Phêrô 3: 20-21), trong khi Thánh Phaolô giải thích việc vượt
biển Đỏ là báo trước phép rửa Kitô giáo. Thánh Phao-lô hiểu việc vượt qua
Biển Đỏ là một kiểu rửa tội, bấy giờ được áp dụng một cách tiên trưng cho người
Ki tô hữu, là người vượt qua dòng nước rửa tội, được rửa tội sáp nhập vào trong
Chúa Kitô (x. 1Cr 10: 11-12).
Trong
thần học về phép rửa của Thánh Phaolô, có những hình ảnh về đi xuống, mai táng
và sự nhận chìm (Rôma 6: 4, Côlôsê 2:12). Tuy nhiên, Thánh Phaolô cũng
liên kết phép rửa với sự chia sẻ chiến thắng của Chúa Kitô trên các quyền lực sự
dữ (Rôma 6: 9). Giống như Thiên Chúa đã chiến thắng sự bạo ngược của
Pharaô qua dòng nước của Biển Đỏ, Chúa Kitô đã chiến thắng Satan trong cuộc sống
của người Kitô hữu qua dòng nước rửa tội. Những chủ đề về cái chết và chiến
thắng được đưa vào trong phụng vụ rửa tội trong Giáo hội sơ khai: “Hay anh em
không biết rằng: hết thảy ta đã được thanh tẩy trong Ðức Kitô Giêsu; thì chính trong
sự chết của Ngài mà ta đã được thanh tẩy?” (Rôma 6: 3). Do đó, qua bí tích
rửa tội trong Chúa Kitô, Kitô hữu trở nên giống Chúa Kitô chết và sống lại được
biểu thị bằng cách dìm mình vào trong dòng nước và trồi lên từ dòng nước. Bắt
đầu từ Thánh Phaolô, các Giáo phụ đã triển khai các chủ đề này trong bối cảnh
phụng vụ rửa tội, kết hợp bí tích rửa tội với cái chết của Chúa Kitô và giảng
giải sự tham gia của Kitô hữu vào trong cái chết đó.
Đức
Giáo Hoàng Biển Đức XVI nói về chiến thắng này khi ám chỉ cuộc chiến đấu của
Chúa Kitô với Satan trong phép rửa của Ngài. Đề cập đến cuộc chiến đấu
này, Đức Giáo Hoàng Biển Đức tuyên bố rằng Chúa Kitô giáng trần trong vai trò của
một người cùng đau khổ với người khác và đó là một sự đau khổ biến đổi làm đảo
lộn thế giới ngấm ngầm, quật ngã và mở tung cánh cổng vực thẳm. [3] Trong cuốn
Chúa Giêsu thành Nazareth, Đức Giáo Hoàng Biển Đức đề cập đến truyền thống hình
tượng mô tả phép rửa của Chúa Giêsu ở sông Giócđan như một ngôi mộ bằng nước có
hình dạng một hang động tối, là biểu tượng của địa ngục. Đức Biển Đức
trích dẫn bài đọc ngụ ý của Thánh Cyrilô thành Giêrusalem về phép rửa của Chúa
Kitô và mối liên hệ của nó với sự đi xuống của Chúa Kitô vào cõi chết: Chúa
Giêsu đi xuống ngôi mộ nước (sông Giócđan), bước vào địa ngục bao bọc Ngài từ mọi
phía, và như thế là báo trước hành động bước xuống này đi vào thế giới dưới
kia: "Khi bước xuống dòng nước, Ngài đã trói buộc con người mạnh mẽ lại.” [4] Thánh
Cyrilô cũng nói đến sự nhấn chìm ba lần như là biểu tượng của ba ngày Chúa Kitô
trong mộ: vì Đấng Cứu Độ chúng ta đã dành ba ngày đêm trong lòng đất trống rỗng,
nên lần đầu tiên anh em nổi lên là anh em hiện tại hóa ngày của Chúa Kitô trên
trần gian và khi anh em bị nhấn chìm xuống là anh em hiện tại hóa đêm đầu tiên
của Ngài...Trong cùng một hành động anh em chết đi và được sinh ra. [5] Thánh
Ambrôsiô triển khai mối liên hệ giữa phép rửa và cái chết của Chúa Kitô còn sâu
xa hơn nữa khi ngài ví giếng nước rửa tội với ngôi mộ: Không phải đất, mà là nước
mới rửa sạch. Vì vậy, giếng nước là một loại phần mộ. [6] Thật
thú vị khi biết rằng nhiều giếng nước rửa tội trong Giáo hội sơ khai thường có
hình dạng như những ngôi mộ. [7]
Giáo hội
sơ khai đã xem phụng vụ rửa tội là một sự tham gia thực sự vào cái chết và sự
phục sinh của Chúa Kitô. Trong các Tông Hiến (cuối thế kỷ thứ tư), chúng
ta thấy có một lời cầu nguyện làm phép nước để người được rửa tội có thể bị
đóng đinh với Chúa Kitô: Xin hãy thánh hóa nước này để những người được rửa tội
có thể được đóng đinh cùng với Chúa Kitô, cùng chết với Ngài, cùng được mai
táng với Ngài, và lại trỗi dậy để hưởng quyền làm con. [8] Thánh
Grêgôriô Nazianzen bày tỏ một điều tương tự: Chúng ta được mai táng cùng với
Chúa Kitô trong bí tích rửa tội để chúng ta có thể sống lại với Ngài. [9] Như đã
đề cập trước đó, Thánh Cyrilô coi ba lần nhận chìm là một biểu tượng của ba
ngày của Lễ Vượt qua và do đó, qua sự nhận chìm của mình, Kitô hữu đã đi vào
cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô. Để trả lời những người cho rằng
phép rửa chỉ tha thứ tội lỗi và đem lại quyền làm nghĩa tử, nhưng không phải là
sự tham gia vào những đau khổ của Chúa Kitô, Thánh Cyrilô vẫn duy trì: “Chúng
ta biết rằng phép rửa không chỉ là rửa sạch tội lỗi và ban cho chúng ta ân huệ
của Chúa Thánh Thần, đó cũng là dấu hiệu của sự đau khổ của Chúa
Kitô... Vì vậy, để chúng ta có thể nhận ra rằng Chúa Kitô đã chịu đựng tất
cả những đau khổ của Ngài vì chúng ta và vì sự cứu độ của chúng ta thực sự, chứ
không phải giả vờ, và chúng ta chia sẻ những đau đớn của Ngài”. [10] Cuối
cùng, đối với Thánh Ambrôsiô, có một sự kết hợp thần bí giữa Kitô hữu và Chúa
Kitô bị đóng đinh được bí tích rửa tội mang lại, để trong phép rửa, có thể nói
Kitô hữu đã nhận được một “bí tích của Thánh giá”. [11]
Do đó,
khi xem xét tính biểu tượng của nước trong Kinh thánh và trong phụng vụ của
Giáo hội sơ khai, nước được liên kết rõ ràng với cái chết của Chúa Kitô. Đối
với người Kitô hữu, bí tích rửa tội có nghĩa là tham gia vào cái chết
này. Đồng thời, nước được kết nối với một cuộc chiến đấu và chiến thắng
các quyền lực đe dọa dân Chúa chọn. Do đó, có thể nói rằng những người được
rửa tội chia sẻ chiến thắng của Chúa Kitô đối với tội lỗi và sự chết.
Descendit
ad infernos: Một sự hiệp nhất hoàn toàn với tội nhân
Nằm giữa
Thứ Sáu Tuần Thánh và Chủ Nhật Phục Sinh, qua đó chiến thắng của Chúa Kitô trên
sự chết được hoàn thành, là một chiến thắng được cử hành trong lễ rửa tội, đó
là mầu nhiệm của Thứ Bảy Tuần Thánh. Do đó, cái chết của Chúa Kitô không kết
thúc vào Thứ Sáu Tuần Thánh, nó kéo dài vào ngày Thứ Bảy Tuần Thánh. Sự
gián đoạn giữa cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô được tóm tắt trong một
bài viết về đức tin được đề cập trong Kinh Tin Kính các Thánh Tông đồ:
Descendit ad infernos (Ngài xuống ngục tổ tông). Sự liên kết của Chúa với
những người tội lỗi lớn lao đến nỗi Ngài thậm chí sẽ đi xuống hố thẳm “âm ti” của
nỗi đau và bóng tối của chính chúng ta. Ngài sẽ đi xuống và bước vào vực
thẳm của “tất cả sự vắng bóng Thiên Chúa”, bước vào một thứ vực thẳm trái ngược
với Thần linh. [12] Ðấng không hề biết tội, thì vì ta, Thiên Chúa đã cho làm thành sự
tội, ngõ hầu trong Ngài ta được trở thành sự công chính của Thiên Chúa. (2
Côrintô 5:21).
Cách
đây nhiều năm, Đức Thánh Cha[2]
đã viết trong Dẫn Nhập vào Kitô giáo: “tiếng khóc của Chúa Giêsu trên
Thánh giá [“Lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi, sao Chúa nỡ bỏ tôi?”] chứa đựng trái
tim của những gì Chúa Giêsu đem xuống địa ngục, sự chia sẻ của Ngài với số phận
của con người phàm nhân hay chết, điều này thực sự có nghĩa là... chia sẻ sự cô
độc tận căn, sự bỏ rơi hoàn toàn. [13] Như vậy,
sự hủy diệt và sự phán xét loài người tội lỗi trong cơn Đại Hồng Thủy và trên
Pharaô trong cuộc Xuất hành bây giờ được Chúa Con tự do ôm lấy, người cho thấy
cùng đích mà tình yêu của Người sẽ đi tới (Gioan 13: 1). Đây là một khúc
quanh bất ngờ trong câu chuyện về sự cứu độ, nơi “Thiên Chúa quay lưng lại với
chính mình”, do đó mặc khải tình yêu ở dạng triệt để nhất. [14] Thiên
Chúa tự nhận lấy sự trừng phạt và sự chết, tượng trưng bằng nước.
Ngày
nay việc Chúa Kitô xuống ngục tổ tông hiếm khi được rao giảng. Ratzinger[3]
gọi đó là một bài viết về Kinh Tin Kính “khác xa với tư duy hiện tại”. Ngài
nói thêm rằng ngay cả khi nó được tìm thấy trong các đoạn Kinh thánh, những đoạn
này rất khó hiểu đến mức chúng có thể được giải thích theo những cách khác nhau
và do đó không bao giờ được giải quyết thực sự. [15] Nghịch
lý thay, mặc dù giáo thuyết này không còn thịnh hành ngày nay, đối với
Ratzinger, “Thứ Bảy Tuần Thánh là ngày của "cái chết của Thiên Chúa",
ngày diễn tả kinh nghiệm vô song của thời đại chúng ta, rằng ngôi mộ che giấu
Ngài, rằng Ngài không còn tỉnh dậy, không còn nói nữa. [16] Thiên Chúa có vẻ xa vời với nhiều
người ngày nay. Sự tàn phá đời sống hôn nhân và gia đình, những cuộc khủng
hoảng tài chính gần đây và nỗi sợ hãi thấm đẫm quá nhiều vào văn hóa của chúng
ta có tác dụng dường như khiến Chúa im lặng. Tuy nhiên, việc Chúa Kitô xuống
địa ngục cho thấy rằng Thiên Chúa đứng về phía con người, Ngài đứng về phía những
kẻ tội lỗi. Thiên Chúa không im lặng, qua việc Ngôi Lời nhận lấy xác phàm,
qua cái chết và việc đi xuống bước vào sự bỏ rơi của Thiên Chúa đối với Ngôi Lời
này, Thiên Chúa đã nói Lời hiệp nhất hoàn toàn với loài người tội lỗi. Theo
cách này, nghi thức rửa tội có liên quan rất lớn đến kinh nghiệm sống của con
người ngày nay.
Việc rửa
tội biểu thị việc Chúa Kitô xuống ngục tổ tông và tình liên đới triệt để của
Người với tội nhân. Chúa Giêsu đã tự mình chịu phép rửa, việc này dự đoán
trước về cái chết của Ngài và sự liên kết của Ngài với đám đông tội nhân rầu rĩ
đang chờ đợi bên bờ sông Giócđan. [17] Do đó,
Kitô hữu được rửa tội theo cách tương tự Chúa Kitô. Kitô hữu cũng xuống nước,
điều mà đối với Danielou, là một “sự bắt chước, mang tính bí tích, đi xuống địa
ngục”. [18] Khi xuống địa ngục, Chúa Kitô đã giải quyết được cái “lý lẽ” của
tội lỗi bằng sự bỏ mình của Ngài dù Ngài là Thiên Chúa. Đây là bản chất của
tội lỗi. Tội lỗi là sự chết, nghĩa là, tội lỗi là sự xa rời Thiên
Chúa. Người được rửa tội đi xuống địa ngục này, nhưng người ấy không đơn độc. Toàn
bộ chiều rộng và chiều sâu của sự xa rời này, của sự đơn độc triệt để và sự bỏ
rơi hoàn toàn này được Chúa biết đến trong và thông qua Con của Ngài (Do thái
4:15). Khi một người được rửa tội, người ấy không bao giờ bị bỏ
rơi; Chúa Kitô ở cùng người ấy qua tất cả mọi điều mà người ấy trải qua, từ
khoảng cách do tội lỗi tạo ra cho đến niềm vui đoàn tụ với Chúa Cha. Đó là
sự hiệp nhất của Chúa Con với con người.
Phép rửa
trong cái chết của Chúa Kitô: chết cho tội và sống cho Chúa
Phép Rửa
khi được hiểu là đi xuống cái chết của Chúa Kitô nhấn mạnh rằng công việc cứu rỗi
trước tiên là công việc của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa là tác giả, đạo
diễn và diễn viên chính trong bộ phim về sự cứu rỗi. Chính Chúa Con đã
vâng lời đáp lại việc Chúa Cha sai Người đến trong Chúa Thánh Thần, ngay cả được
sai đến vực thẳm của ngục tổ tông.
Nhờ sáp
nhập với Giáo hội trong bí tích rửa tội, các Kitô hữu trở thành người “cùng chịu
đóng đinh”. [19] Mọi thứ Chú rể đều dành cho Cô dâu của mình, nhưng cô ấy phải sẵn
sàng tham gia. Như thế, vai trò của Kitô hữu không bao giờ là bị động,
nhưng đòi hỏi “sự tham gia đầy đủ, có ý thức và tích cực của người ấy”. Do
đó, người được rửa tội được mời gọi trong Chúa Kitô có một sự tiếp nhận đích thực
và sẵn sàng đối với Ngài. Tất cả mọi thứ xảy ra với Chúa Kitô cũng xảy ra
với Kitô hữu và được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống, kể cả
cái chết cho tội lỗi.
Như vậy,
phép rửa trong cái chết của Chúa Kitô chứa đựng một yếu tố đạo đức (Rôma 6:
4). Trong mục đích nảy, học giả Kinh thánh người Đức Rudolf Schnackenburg
đã mô tả thần học Thánh Phaolô về phép rửa như sau: Bằng việc chết đi (qua bí
tích rửa tội) với Chúa Kitô và được sống lại với Ngài, cương vị môn đệ vĩnh viễn
và sự trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô được tăng trưởng. [20] Đức
Giáo Hoàng Biển Đức sử dụng ngôn ngữ tương tự trong mô tả của Ngài về thần học
rửa tội của Thánh Phaolô:
Rửa tội
không chỉ là một sự thanh tẩy. Đó là cái chết và sự phục sinh. Chính Thánh
Phao-lô nói trong Thư gửi tín hữu Galata về bước ngoặt trong cuộc đời mình do
cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô Phục sinh, đã mô tả nó bằng dòng chữ: Tôi đã chết. Ngay
lúc đó một cuộc sống mới thực sự bắt đầu. Trở thành Kitô hữu còn hơn là một
cuộc giải phẫu thẩm mỹ thêm một chút gì
đẹp đẽ vào một sự hiện có đã ít nhiều hoàn chỉnh. Đó là một khởi đầu mới,
đó là sự tái sinh: chết và sống lại. [21]
Bởi vì
phép rửa yêu cầu một mệnh lệnh đạo đức, phép rửa trong cái chết của Chúa Kitô
không phải là một sự kiện chỉ có một lần duy nhất - một khi được cứu thì luôn
được cứu. Bí tích Rửa tội cho thấy kịch tính vĩ đại trong sự hiện hữu Kitô
giáo: đời sống Kitô hữu là một cuộc sống liên tục chết cho tội lỗi và sống cho
Thiên Chúa trong Chúa Kitô và trong Chúa Thánh Thần. Bí tích Rửa tội thực
sự là một asequela Christi[4],
theo đó, cái chết của Chúa Kitô luôn được thể hiện trong đời sống của Kitô hữu
(x. 2Cr 4:10). Cái chết cho tội lỗi này đạt đến đỉnh điểm của nó trong Bí
tích Thánh Thể, đó là cái chết và sự sống đích thực bởi vì nó làm cho cái chết
và sự Phục sinh của Chúa Kitô trở nên hiện diện. Như vậy, chúng ta thấy
phép rửa chuẩn bị cho Bí tích Thánh Thể như là nguồn và đỉnh cao của đời sống
Kitô hữu.
Một sự
hiểu biết về phép rửa như là sự chia sẻ cái chết của Chúa Kitô cho thấy đời sống
Kitô hữu rốt cuộc là việc phó dâng chính mình và chết đi; đó là sự từ bỏ
mình đi. Nói đơn giản hơn, đời sống Kitô hữu là chết cho tình
yêu. Khi phép rửa được coi là một sự chia sẻ cái chết của Chúa Kitô, là Đấng
đã hết lòng yêu mến Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần, chúng ta thấy phép rửa
trong Bí tích Thánh Thể, nhưng phép rửa cũng trở thành hình thức hiện hữu của
Kitô giáo.
Phần kết
luận
Được rửa
tội bằng phép rửa của Chúa Kitô là tham gia vào cái chết và sự Phục sinh của
Chúa Kitô. Ý nghĩa của việc nhận chìm trong nước làm cho sự chia sẻ cái chết
của Chúa Kitô trở nên hiện diện một cách bí tích, việc Chúa Kitô chết đi là việc
Ngài xuống địa ngục xa rời Thiên Chúa, và chiến thắng hoàn toàn của Ngài trước
tội lỗi và sự chết qua sự Phục sinh của Ngài. Vì trong tội lỗi của chúng
ta, chúng ta vẫn xa cách Thiên Chúa, nên ngày nay tính biểu tượng của việc đi
xuống trong nghi thức rửa tội có một mối liên quan đặc biệt. Khi tự mình
trải qua việc đi xuống này, Chúa Kitô không yêu cầu chúng ta thực hiện nhiệm vụ
này một mình mà là theo Người đi xuống vực thẳm của nước. Bằng cách mời gọi
chúng ta chia sẻ phép rửa của Ngài, Chúa Kitô mời gọi mỗi người đi vào đời sống
hiệp thông với Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần, mời gọi tất cả chúng ta biến đổi
cuộc sống nhờ ân sủng để mỗi Kitô hữu có thể thực sự chết cho tội lỗi và sống
cho Thiên Chúa trong Chúa Kitô.
Do đó,
chiến thắng của Chúa Kitô đối với tội lỗi, được hoàn thành bằng cái chết và Phục
sinh của Ngài, là có sẵn cho mỗi Kitô hữu trong bí tích rửa tội. Đây là những
gì tất cả chúng ta phải nghe ngày hôm nay. Chúng ta cần phải nghe rằng sự
chiến thắng của Chúa Kitô đối với tội lỗi và đối với sự chết đã thay đổi mọi thứ
tận căn, bởi vì nhờ việc đi xuống khải hoàn của Chúa Kitô, Kitô hữu ngộ ra rằng
chờ đợi ở phía bên kia vực thẳm là Đấng đã đi trước:
Chúa
Kitô đã bước qua cánh cổng cô đơn cuối cùng của chúng ta... [Trong] Cuộc Thương
Khó của Ngài, Chúa Kitô đã đi xuống vực thẳm của sự bỏ rơi chúng ta. Nơi
nào chúng ta không thể nghe có tiếng nói nào nữa, nơi đó có Ngài. Do đó, địa
ngục đã bị vượt qua, hoặc, chính xác hơn, cái chết, mà trước đây là địa ngục,
thì không còn là địa ngục nữa. Không còn như vậy nữa bởi vì có sự sống
ngay giữa cái chết, bởi vì tình yêu cư ngụ trong đó. Cánh cửa tử thần mở
ra kể từ khi cuộc sống - tình yêu, đã cư ngụ trong cái chết. [22]
[1] Hội
đồng Giám mục (Hoa Kỳ), Nghi thức khai tâm Kitô giáo của người lớn:
Phiên bản học tập (Chicago: Ấn phẩm đào tạo phụng vụ, 2007),
135.
[2] Jean
Danielou, Kinh thánh và Phụng vụ (Nhà thờ Đức Bà: Nhà xuất
bản Đại học Notre Dame, 1956), 85-98.
[3] Benedict
XVI, Jesus of Nazareth (New York: Doubleday, 2007),
20.
[4] Ibid.,
19.
[5] Edward
Yarnold (chủ biên), Nghi thức khai tâm đầy cảm hứng: Nguồn gốc của
RCIA (Collegeville: The Liturgical Press, 1994), 78.
[6] Ibid.,
117.
[7] Ibid.,
117, xem chú thích, 31.
[8] Danielou, Kinh
thánh , 44.
[9] Ibid.,
44.
[9] Sợi, Awe ,
79.
[10] Ibid.,
119.
[11] Hans
Urs von Balthasar, Mysterium Paschale (San Francisco:
Ignatius Press, 2005), 13; 51.
[12] Joseph
Ratzinger, Giới thiệu về Kitô giáo (San Francisco:
Ignatius Press, 2004), 297-298.
[13] Benedict
XVI, Deus Caritas Est (Boston: Pauline Books and Media,
2006), §12 [14] Ratzinger, Giới thiệu , 293-294.
[15] Ibid.,
294.
[16] Benedict
XVI, Jesus of Nazareth , 16.
[17] Danielou, Kinh
thánh , 78.
[18] Balthasar, Mysterium
Paschale , 134.
[19] Rudolf
Schnackenburg, Bí tích Rửa tội trong tư tưởng của Thánh Paul: Một
nghiên cứu về Thần học Pauline (Oxford: Blackwell Publishers, 1964),
155.
[20] Benedict
XVI, Khán giả nói chung, ngày 10 tháng 12 năm 2008.
[21] Benedict XVI, Khán giả nói chung, ngày 10 tháng 12 năm 2008
[22] Ratzinger, Giới
thiệu , 301.
(*) Về
Owen Vyner
Owen
Vyner là giám đốc của Viện Đời Sống Hôn Nhân và Gia Đình tại Giáo xứ Đức Mẹ
Loreto ở Foxfield, Colorado. Ông có bằng cử nhân về lịch sử và khoa học
chính trị của Đại học Tây Úc, bằng tốt nghiệp Giáo dục của Đại học Notre Dame
(Úc) và bằng Thạc sĩ Thần học của Viện Hôn nhân & Gia đình John Paul II
(Melbourne). Ông hiện đang theo đuổi một bằng cấp về Thần học bí tích tại
Viện Phụng vụ (Mundelein). Vợ ông tên Terri và ông là cha mẹ của một bé
gái gốc Hàn Quốc.
Phêrô
Phạm Văn Trung, chuyển ngữ.