Diễn văn của Đức cha Chủ tịch HĐGMVN
tại Bộ Phúc Âm hóa các Dân tộc, 24-06-2009
Sự dấn thân truyền giáo của Giáo Hội Chúa Kitô tại Việt Nam
trong đức Tin, đức Mến và đức Cậy
Trọng
kính Đức Hồng y,
Quý Đức Cha và
Quý Đức Ông,
Xin cho phép con chia sẻ
vắn tắt với Quý ngài niềm vui sống đức tin, những dấn thân mục vụ và những lo
âu của chúng con trong công cuộc Phúc Âm hóa mà Giáo Hội đang thực hiện tại
Việt Nam, trước khi chúng con lắng nghe những lời khuyên luôn luôn quý báu và
cần thiết của Quý ngài nhằm củng cố các xác tín và các định hướng của chúng con
trong đời sống và sứ mạng của Giáo Hội hôm nay.
Chuyển biến lịch sử gần
nhất của Giáo Hội tại Việt Nam có thể sơ lược như sau:
Chiến tranh Đông Dương kết
thúc bằng việc chia cắt Việt Nam thành hai miền vào năm 1954. Hàng Giáo phẩm
Công giáo Việt Nam được thiết lập năm 1960. Năm 1975 chứng kiến sự thống nhất
hai miền Đất Nước về mặt chính trị. Mãi đến năm 1980 Hội Đồng Giám Mục của cả
nước Việt Nam mới được khai sinh. Với sự kiện lịch sử này, Giáo Hội tại Việt
Nam đứng trước một khúc ngoặt mới, đặt ra cho Giáo Hội một đòi hỏi là, hơn bao
giờ hết, phải lớn lên trong đức Tin, phải xây dựng chính mình trong đức Mến, và
phải dấn thân cách quyết liệt hơn nữa vào công cuộc Phúc Âm hóa thế giới dưới
sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, Đấng khơi dậy lòng Cậy Trông. Hiện nay chúng
con đang triển khai mọi nỗ lực trong không gian được định hình bởi ba chiều
kích hướng thần ấy.
Mối bận tâm số một là sự
trưởng thành trong đức Tin. Điều này được thể hiện trước nhất trong việc
giáo dục và huấn luyện: huấn luyện giáo lý viên, chủng sinh, tu sĩ nam nữ, và
thường huấn dành cho linh mục. Một số trung tâm mục vụ đã được xây dựng trong
những năm gần đây nhằm cổ võ việc đào sâu đời sống Kitô hữu của nhiều nhóm khác
nhau và thăng tiến việc tông đồ giáo dân. Chất lượng giảng dạy trong các Đại
Chủng viện được cải thiện nhờ có điều kiện gửi linh mục đi học các ngành chuyên
môn tại Rôma và nhiều trung tâm văn hóa khác trên thế giới. Chúng con cũng có
hơn 50.000 giáo lý viên thiện nguyện đang phục vụ tại mọi nẻo đường của Đất
Nước, từ các vùng thành thị cũng như nông thôn, đến tận những miền sơn cước của
các nhóm dân tộc thiểu số.
Tiếp đến, việc xây dựng
sự hiệp nhất và hiệp thông bên trong Giáo Hội cũng mang một tầm quan trọng
hàng đầu, không những đối với sự tồn tại vững bền của Giáo Hội, mà cả với sứ
mạng của chúng con phải loan truyền Phúc Âm. Một mặt, chính chúng con, các
thành viên của Hội đồng Giám mục, chúng con cố gắng làm việc với nhau ngày càng
chặt chẽ hơn trong tinh thần liên đới, phục vụ và trách nhiệm. Hiện đang hình
thành một sự hợp tác trong các lãnh vực giáo dục, từ thiện và truyền giáo giữa
các giáo phận với những đường nét ngày càng cụ thể hơn và mang nhiều hứa hẹn.
Mặt khác, năm nay chúng con nhấn mạnh việc giáo dục nhân bản và tôn giáo trong
gia đình ; bởi lẽ, ngay trong một xã hội vốn rất gắn bó với truyền thống như
tại Việt Nam, nơi mà gia đình còn giữ được một giá trị hầu như thánh thiêng,
thì cái tế bào sống động này của xã hội đang bắt đầu lung lay do những đổi thay
nhanh chóng, không những trong não trạng và cách ứng xử của cá nhân, mà cả
trong chính cơ cấu của gia đình nữa. Chúng con thâm tín rằng: không có hiệp
nhất và hiệp thông trong gia đình, thì không thể có truyền thông đích thực và
đoàn kết chân thật trong xã hội.
Sau hết, chính đòi hỏi của
đức Tin cũng như hoàn cảnh thực tế của xã hội, hơn bao giờ hết, chất vấn và mời
gọi chúng con dấn thân quyết liệt vào sứ vụ truyền giáo, là sứ vụ bao
hàm cả việc phát triển toàn diện mỗi con người và mỗi dân tộc. Thật vậy, các
chuyển biến mới đây của Đất Nước chúng con và sự suy thoái hiện nay của nền
kinh tế toàn cầu đang làm xuất hiện những hình thức mới của nghèo đói, của di
dân, nghĩa là những vấn đề xã hội làm bận lòng nhiều người. Những hiện tượng ấy
đụng chạm tới chính sứ mạng của Giáo Hội trong thế giới, một Giáo Hội tự cảm
thấy được kêu gọi đi phục vụ ưu tiên những người nghèo khó và nhỏ bé. Đối diện
với những hiện tượng như vậy, tâm linh chúng con tự thấy nhạy cảm, và tự thấy
mình được động viên dấn thân vào những hành động cụ thể. Thế nhưng chính về
điểm này, chúng con đang phải chạm trán với một khó khăn lớn lao: đó là, ai
cũng thấy rằng quyền có mặt một cách hữu hiệu trong xã hội và quyền phục vụ mọi
tầng lớp dân chúng trong mọi lãnh vực đời sống chưa được thừa nhận cho chúng
con, hoặc chỉ mới được thừa nhận một cách rất hạn chế. Vì nhiều lý do phức tạp
và tế nhị, các nỗ lực của chúng con trong lãnh vực này thường chỉ diễn ra một
cách thầm lặng. Tuy nhiên, dầu khó khăn đến mấy, kể cả trong tình trạng bị hiểu
lầm và bị gây căng thẳng, chúng con vẫn tiếp tục làm việc cách kiên nhẫn, để
mưu cầu thiện ích cho dân chúng, đồng thời tiếp tục duy trì cuộc đối thoại
thẳng thắn và chân thành với chính quyền dân sự nhằm đạt được một sự tham dự
tích cực hơn và hữu hiệu hơn nữa vào đời sống xã hội. Chúng con xác tín điều
này, vì đây là ơn gọi của Giáo Hội trong việc phục vụ con người và chúng con
thấy những dấu hiệu tích cực đang mở ra cho Giáo Hội trong lãnh vực này.
Ngoài ra, chúng con xác
tín rằng Thiên Chúa hay dùng những thử thách và cảnh khốn quẫn để dạy chúng con
biết thanh luyện, điều chỉnh và thậm chí bỏ đi cái nhìn riêng của mình, để nhìn
thế giới này, cuộc sống này với những con người cụ thể và độc nhất vô nhị này
bằng con mắt của chính Đấng đã yêu thương thế gian quá đỗi… (x. Ga 3,16).
Nhân danh tất cả các Giám
mục hiện diện nơi đây, con xin cảm ơn Quý ngài trước về những hướng dẫn mục vụ
của Quý ngài, về sự giúp đỡ quý báu cả về phương diện vật chất lẫn tinh thần mà
Quý ngài vui lòng dành cho chúng con và các Giáo phận của chúng con.
+ Phêrô
Nguyễn Văn Nhơn,
Giám mục
Đàlạt
Chủ tịch
Hội đồng Giám mục Việt nam