XIN HÃY NHÌN VÀO THỰC TẾ CỦA GIÁO HỘI
VÀ XÃ HỘI VIỆT
(TTCG
Cập nhật: 16/11/2010 09:56:39)
BẢN GÓP Ý CỦA UBBAXH-CARITAS VIỆT
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn
Giám đốc Caritas Việt
Kính thưa Đại hội,
Con xin thay mặt cho Uỷ ban Bác ái Xã hội-Caritas Việt Nam
(UBBAXH-Caritas VN) trình bày một vài ý kiến đóng góp trong Đại hội Dân Chúa
Việt Nam vì chúng con hy vọng rằng Đại hội này và những nghi lễ trang trọng
trong Năm Thánh là điểm khởi đầu cho một vận hội mới của Giáo hội Việt Nam
(GHVN) cũng như cho dân tộc Việt Nam hướng đến sự thăng hoa và phát triển toàn
diện.
Để đạt được mục tiêu này, chúng con đề nghị một điểm cơ bản
duy nhất: xin hãy nhìn Giáo Hội và dân tộc VN như những thực thể với tất cả
những gì đang tồn tại, đang diễn ra trong tự nhiên và xã hội, có liên hệ đến
đời sống con người. Rồi từ những nguyên tắc hướng dẫn trong Tài liệu Làm việc
đối chiếu với những thực tại đó, các đại biểu tham dự Đại hội sẽ cùng suy nghĩ,
bàn luận, tìm ra hướng đi cho GHVN trong giai đoạn mới. Đức Giêsu đã nhắc nhở:
“Sự thật sẽ giải phóng chúng ta” (x. Ga 8,32). Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI cũng
đã viết cả một thông điệp về vấn đề này: Bác ái phải dựa vào sự thật (x. Thông
điệp Caritas in Veritate, ngày 30-9-2009).
Kèm theo Bản Góp ý này, chúng con cũng xin gửi đến Đại hội
Dân Chúa tập tài liệu “Tình bác ái Đức Kitô thúc đẩy chúng ta” với những số
liệu cụ thể để minh hoạ cho Bản Góp ý.
Trong phạm vi bài này, chúng con xin góp ý về mấy điểm
chính sau đây:
1. Nhận định tóm lược về Tài liệu Làm việc của Đại hội Dân
Chúa Việt
2. Con người Việt
3. Giáo hội Việt
4. Dân tộc VN như đối tượng và môi trường cho sứ mạng rao
giảng Tin Mừng.
5. Một vài đề nghị cụ thể cho vận hội mới của Giáo Hội và
đất nước Việt
1. NHẬN ĐỊNH TÓM LƯỢC VỀ TÀI LIỆU LÀM VIỆC CỦA
ĐẠI HỘI DÂN CHÚA VIỆT
1.1. Tài liệu giá trị
Tài liệu Làm việc (TLLV) của Đại hội Dân Chúa đã trình bày
rất tốt phần nền tảng thần học về Giáo hội Chúa Kitô tại Việt Nam như mầu
nhiệm, hiệp thông và sứ vụ.
Đi sâu vào từng phần nhỏ trong từng chương chúng ta thấy
tài liệu đã giới thiệu những nguyên tắc thần học căn bản để giúp cộng đồng Dân
Chúa hiểu rõ hơn về từng khía cạnh trong mỗi phần trình bày. Đây là một công
trình đáng khen ngợi, tốn nhiều tâm huyết và công sức.
Phần II trình bày về hướng đi mục vụ đã nêu lên những nét
chính yếu trong hoạt động của Giáo Hội như củng cố sự hiệp thông với Thiên
Chúa, phát huy sự hiệp thông và tham gia trong đời sống Giáo Hội, đào tạo nhân
sự, hội nhập văn hoá, loan báo Tin Mừng, thực thi công bằng - bác ái.
Muốn xác định rõ ràng và đầy đủ hơn hướng đi mục vụ cho các
thành phần Dân Chúa, chúng ta phải tìm hiểu, nghiên cứu thực chất của GHVN và
cả dân tộc VN, vì GHVN là cộng đồng gồm những con người với bản sắc văn hoá rõ
rệt và cụ thể chứ không phải chỉ đưa ra những nguyên tắc thần học. Hơn nữa, tập
tài liệu tuy đã nhắc đến nhưng chưa nêu lên rõ ràng một vài nguyên tắc mới mẻ
do chính ĐTC, các Bộ và Hội đồng Giáo hoàng đưa ra để canh tân GH trong thời
gian gần đây. Vì thế, chúng con xin thêm vào cho đầy đủ phần này.
1.2. Nguyên tắc đầu tiên: Thiên Chúa Tình Yêu là điểm hội
tụ cho mọi hoạt động của GH
TLLV cũng đã trích dẫn nhiều lần các thông điệp Deus
Caritas est (Thiên Chúa là Bác ái) của ĐTC Bênêđictô XVI nhưng chưa làm nổi bật
được nguyên lý thần học nền tảng mà ĐTC Bênêđictô mời gọi xây dựng mọi suy tư
và hoạt động của GH trên đó. Người cha chung đầy kinh nghiệm và suy tư đã chiến
đấu không biết mệt mỏi để bảo vệ giáo lý đức tin trong suốt 30 năm ở Thánh Bộ
Giáo lý Đức tin, qua ơn linh hứng của Thiên Chúa cũng như từ kinh nghiệm của 2
nhân vật sống động cùng thời là ĐTC Gioan Phaolô II và Mẹ Têrêsa Calcutta, đã
nghiệm ra rằng Thiên Chúa là Caritas, là bác ái, là tình yêu rộng mở. Thay vì
viết nên những luận đề thần học cao siêu, đầy lý luận, ngài tập trung cho Thiên
Chúa Tình yêu với thông điệp đầu tiên: Deus Caritas est (Thiên Chúa là Bác
ái-2005), Tông huấn Caritatis Sacramentum (Bí tích Bác ái-2007) và mới đây là
Thông điệp Caritas in Veritate (Bái ái trong Chân lý-2009).
Tình bác ái này là bản chất của chính Thiên Chúa như Thánh Gioan
đã định nghĩa (1Ga 4,16) và Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể, là tình bác ái
cụ thể, là quà tặng tình yêu cao quý nhất được ban cho muôn loài. Vì thế, hoạt
động bác ái xã hội bây giờ không còn chỉ tập trung vào những dự án đem lại một
cái gì vật chất hay tinh thần cho người nghèo mà là toàn bộ hành động diễn tả
tình yêu rộng lớn cho muôn loài, muôn vật, nhất là đem Chúa Giêsu Kitô cho tất
cả những ai chưa biết Người, chưa có Người để được chia sẻ niềm vui, hạnh phúc,
sự sống, sự thật, sự thiện hảo, đẹp đẽ của Thiên Chúa.
Vì thế, nền tảng của đời sống đạo đức cũng như nội dung
truyền giáo từ nay cần phải hiểu là Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa làm
Người; Người chính là Tin Mừng (TLLV, số 24) chứ không phải đặt nền tảng trên
Lời Chúa (hiểu như là các bản văn Thánh Kinh) và các bí tích. Điều này Hiến chế
Dei Verbum của CĐ. Vaticanô II đã nhắc nhở và đặc biệt Huấn thị Xuất phát lại
từ Đức Kitô (19-5-2002) của Bộ Đời sống Thánh hiến và Hiệp hội Tông đồ đã xác
định để tránh tình trạng phân hoá về đời sống đạo đức, tìm về với các thánh tổ
phụ lập dòng của các tu sĩ. Hơn nữa, chính Đức Giêsu Kitô là Sự thật và Sự sống
đang nói trong các tôn giáo khác, các nền văn hoá, trong vũ trụ vạn vật, trong
lương tâm con người (x. Dei Verbum) nên dù không theo Công giáo, không nhận bí
tích, không biết Lời Chúa họ vẫn thật sự đạo đức và có khi đạo đức hơn chúng ta
(x. Mt 7,21).
1.3. Nguyên tắc mới thứ hai: Bản chất của Giáo hội Công
giáo
TLLV đã trình bày nguyên tắc mới về bản chất Giáo Hội dưới
ba khía cạnh: “Mầu nhiệm, hiệp thông, sứ vụ” mà ĐTC Bênêđictô XVI xác định
trong tông huấn đầu tiên của ngài, dù cách trình bày của TLLV hơi tản mác,
khiến người tín hữu giáo dân khó nắm bắt. Bản chất của Giáo hội Công giáo
(GHCG) và cũng là của mỗi Kitô hữu gồm 3 yếu tố liên kết mật thiết với nhau: đó
là đời sống phụng tự, hoạt động bác ái xã hội và hoạt động loan báo Tin Mừng
(x. ĐTC Bênêđictô XVI, Deus Caritas est, số 20,25,32).
Ba hoạt động này lấy Thiên Chúa Tình yêu làm điểm nòng cốt
để hội tụ: người tín hữu gắn bó với Thiên Chúa Tình yêu qua đời sống cầu
nguyện, tham dự các bí tích để nhận được tình yêu, ân sủng của Thiên Chúa rồi
diễn tả tình bác ái thành những hành động cụ thể như Đức Giêsu đã làm xưa, nhờ
đó người khác, vật khác nhận ra được Đức Giêsu và đón nhận Tin Mừng cứu độ.
Điểm mới mẻ này nhắc nhở Giáo hội toàn cầu trong nhiều thế
kỷ đã quá phân chia 3 lĩnh vực phụng tự, bác ái, truyền giáo biệt lập với nhau
và quá tập trung cho đời sống phụng tự đến nỗi truyền giáo không kết quả và bác
ái chỉ còn là hình thức hoạt động từ thiện xã hội chứ không còn là việc chia sẻ
Thiên Chúa cho con người. Việc chia cắt này còn đưa tới sự phân hoá trong chính
nội bộ Giáo Hội do những dòng tu lo những phần việc khác nhau mà không kết hợp
với nhau, cũng như các vị linh mục không dám dấn thân vào lĩnh vực bác ái xã
hội vì sợ nguy hại đến đời sống thiêng liêng và giáo dân cảm thấy đời sống
phụng vụ tẻ nhạt đến nỗi không còn muốn đi dự lễ như đang xảy ra tại nhiều nước
đã từng theo Kitô giáo.
1.4. Nguyên tắc mới để xây dựng Giáo hội Chúa Kitô: Bác ái
trong sự thật
Chương III của TLLV trình bày GHVN và sứ mạng loan báo Tin
Mừng cũng như cả phần II trình bày “Hướng đi mục vụ” của GHVN là một bản nghiên
cứu công phu của Ban Soạn thảo Văn kiện Đại hội với những chỉ dẫn có tính
nguyên tắc rất đúng đắn trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Tuy nhiên, TLLV nên quan tâm đến một nguyên tắc mới mẻ được
ĐTC Bênêđictô XVI trình bày trong thông điệp mới đây của ngài (29-6-2009): Bác
ái trong sự thật. GHCG với các nhà thần học trong nhiều thế kỷ đã tốn quá nhiều
giờ cho các hội nghị, khoá họp để học hỏi, nghiên cứu hay tranh cãi về các điểm
giáo lý, tín điều. Họ quên GH là một thực thể gồm những con người vừa tốt đẹp,
vừa yếu đuối và nhân loại, thế giới cũng là những thực thể với thực tại vô cùng
phong phú cần được nghiên cứu sâu xa trước khi áp dụng các nguyên tắc thần học.
Muốn xây dựng một nền nhân bản toàn diện cho con người
trong thế giới hôm nay như cuốn Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công
giáo do Hội đồng Giáo hoàng Công lý và Hoà bình xuất bản năm 2005, giới thiệu,
chúng ta cần phải thể hiện tình bác ái dựa trên sự thật về con người, về xã
hội, thế giới, vũ trụ cũng như dựa trên sự thật về các lĩnh vực như kinh tế, xã
hội, chính trị, y tế, giáo dục, văn hoá, nông nghiệp, công nghiệp và môi trường…
Cách đây 2 năm, để chuẩn bị cho Đại hội Dân Chúa Việt Nam
này, các uỷ ban của HĐGMVN đã được yêu cầu nghiên cứu và trình bày về lĩnh vực
hoạt động của mình trong 50 năm qua và những định hướng cho tương lai. Một vài
uỷ ban đã thực hiện tốt để góp phần cho bản TLLV này. Tuy nhiên, phải nói rằng
nhiều sự thật đã không được biết đến hoặc không dám nói ra vì chủ trương “dĩ
hoà vi quý” và lời khuyên “đừng vạch áo cho người xem lưng” để người khác không
có cớ phản bác GH, cả GH toàn cầu cũng như GHVN.
ĐTC Bênêđictô XVI sau những năm suy nghĩ, ngài đã mạnh dạn
phá tan thái độ ngại ngùng, nhát đảm ấy qua những hành xử mới đây để mời gọi GH
đi vào “linh đạo bác ái” hay con đường tình yêu của Thiên Chúa. Con đường này
dựa trên sự thật là chính Chúa Kitô và được Thần Khí Sự Thật soi sáng để dẫn
GHVN cũng như GH toàn cầu hướng đến sự phát triển toàn diện và sự sống dồi dào.
Chính trong đường hướng mới mẻ đó tỷ lệ dân Công giáo bắt
đầu tăng sau nhiều năm đi xuống: từ 18,2% năm 1960 đến 17,2% năm 2005. Nhưng
dưới triều Đức Thánh Cha đương kim tỷ lệ dân số Công giáo so với dân số toàn
cầu tăng từ 17,3% năm 2007 và 17,44% năm 2009 (x. Thống kê Dân số Toà Thánh
Vaticanô năm 2008, 2010). Đây là dấu hiệu tốt đẹp chứng tỏ con đường đúng đắn
của ngài.
Dựa trên những nguyên tắc thần học nền tảng mới mẻ trên,
chúng con xin bổ sung một số điểm cần quan tâm trong TLLV của Đại hội Dân Chúa.
2. CON NGƯỜI VIỆT
Chủ thể mọi hoạt động của GH tại VN là những con người VN.
Chính họ cầu nguyện, tham dự các nghi lễ phụng vụ, rao giảng Tin Mừng, thể hiện
hành vi bác ái cũng như buôn bán, học hành, làm việc, nghỉ ngơi, giải trí và
thực hiện mọi hoạt động trong xã hội như công dân của một đất nước.
Vì thế, trước khi bàn đến GHVN và dân tộc VN, chúng con
nghĩ rằng nên nói sơ qua về cấu trúc tâm lý xã hội và bản sắc văn hoá của con
người VN để từ đó tìm ra được nguyên nhân của những điểm tốt và những điểm xấu
còn tồn tại trong cộng đồng (xem bài Cấu trúc Văn hoá Xã hội của người Việt Nam
(x. số 142-149) và bài Hội nhập Văn hoá tại VN và truyền giáo, tại Đại hội
Truyền giáo của TGP. TP.HCM, ngày 23-10-2010, số 70,72,73).
Tình trạng trì trệ, phân hoá, nghèo đói của GHVN và xã hội
VN không phải chỉ bắt nguồn từ những nguyên nhân trực tiếp như chiến tranh, sự
xung đột các ý thức hệ, tham nhũng, yếu kém về khoa học kỹ thuật… nhưng bắt
nguồn sâu xa từ bản sắc của dân tộc Việt Nam. Chính Nhà Nước cũng ý thức điều
này nên đã có những dự án lớn 5 năm và 2 Hội nghị Khoa học Xã hội để đổi mới
con người Việt Nam (x. Giáo Hội Việt Nam và sứ mạng phục vu con người, số
92-95).
Bản sắc này dựa trên cấu trúc tâm lý xã hội của người Việt
Cấu trúc này gồm nhiều đức tính và tật xấu: chúng hình
thành từ những nhận thức dẫn đến thái độ và hành động, hành động lặp đi lặp lại
tạo thành thói quen, thói quen lâu dần thành cá tính của một con người. Nhiều
người có cá tính giống nhau tạo nên bản sắc dân tộc. Những đức tính tốt như cần
cù, chịu khó, tận trung, tận hiếu, có lòng hảo tâm và biết chia sẻ với người
cùng khổ, thông minh, sáng tạo, khéo léo, ham học hỏi, xởi lởi, hiếu khách, có
tinh thần hiền hoà và nhẫn nại. Tuy nhiên, người Việt cũng có nhiều tật xấu
như: giả dối, tham lam, ăn cắp vặt, không tôn trọng của chung, làm việc hời
hợt, nghi ngờ và sống khép kín, thiếu lý tưởng cao để đoàn kết và cộng tác
chung với nhau. Các tật xấu này bắt nguồn từ những năm sống dưới ách nô lệ của
bọn đế quốc - thực dân, nhất là dưới sự áp bức, xâm lăng của người Trung Hoa
(-111 đến 938). Khi đó việc tuyên truyền chống lại kẻ thù, bất hợp tác với kẻ
thù là thái độ yêu nước chính đáng, nhưng khi không còn kẻ thù thì chúng lại
trở thành tật xấu cho người VN.
Những đức tính và tật xấu này tuỳ theo hoàn cảnh sống của
từng người, việc giáo dục trong gia đình cũng như ngoài xã hội và sự tự đào
luyện của bản thân mà tác động lên con người cũng như cộng đồng xã hội, ngay cả
trong GHVN. Vì thế, việc rao giảng Tin Mừng mang tính cách văn hoá, nghĩa là
đưa những giá trị tích cực của Tin Mừng kèm theo những kỹ năng thực hiện các
giá trị đó để xây dựng bản sắc con người và dân tộc VN như cha ông tổ tiên
chúng ta đã làm xưa.
3. GIÁO HỘI VIỆT
Sau khi nhìn GHVN như một thực thể gồm những con người có
cấu trúc tâm lý và bản sắc văn hoá như trên, chúng ta thử nhìn vào từng thành
phần nhân sự cấu tạo nên GH như giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân cũng như
những hoạt động của các uỷ ban thuộc HĐGM để khám phá ra tình trạng hiện thời
trước khi hoạch định đường hướng hoạt động cho tương lai.
3.1. Tình trạng hiện nay
Xét về mặt hành chính, GHVN có 43 giám mục (26 chính, 4 phụ
tá, 13 nghỉ hưu), 3.902 linh mục (3.057 triều, 855 dòng), 1.582 chủng sinh và
2.191 người dự bị, 2.108 tu sĩ nam, 14.651 tu sĩ nữ, 57.424 giáo lý viên (x.
Bảng tổng kết của 26 giáo phận do Ban Thư ký HĐGM cung cấp trong dịp họp HĐGM
tháng 10-2010 vừa qua. Tính đến ngày 31-12-2009).
Xét về mặt quản lý, có lẽ GHVN cũng như toàn cầu đặt trọng
tâm vào mặt đạo đức, tinh thần nên việc quản lý con người, vật chất còn kém.
Điều này tỏ rõ qua những con số của bản tổng kết: diện tích thật sự của nước VN
là 331.051,4km2, trong khi các giám mục quản lý tới 335.667,63km2, khác biệt
hơn 4 ngàn km2 (gấp đôi diện tích của TGP. TP.HCM) Số dân trong nước vào cuối
năm 2009 là 86.024.600 người, trong khi các giám mục quản lý tới 92.156.249
người, vượt hơn 6 triệu người! (x. Niên giám Thống kê (Tóm tắt) 2009, NXB Thống
Kê, Hà Nội, 2010, tr. 9). Những điều thiếu sót này chứng tỏ công tác quản lý
yếu kém của HĐGM và các toà giám mục.
Thật sự, để sửa chữa những điểm sai lạc này, các giám mục
chỉ cần họp một ngày để thống nhất với nhau về ranh giới các giáo phận, rồi từ
đó tính ra số dân với công cụ là các tài liệu thống kê địa phương có sẵn. Cho
đến nay, một số giáo phận vẫn chưa ổn định được ranh giới, chưa xác định được
số dân của mình, chưa tổ chức quy củ văn phòng làm việc.
Xét về mặt truyền giáo
Trong vòng 50 năm qua, số giáo dân tăng từ 2 triệu vào năm
1960 đến 6 triệu vào năm 2010. Nhưng số tăng này chỉ tương ứng với số sinh tự
nhiên và tỷ lệ dân Công giáo so với dân số cả nước vẫn ở mức 7%. Nếu tính theo
số liệu Tổng Điều tra Dân số 2009 thì chỉ có 6,61%. Con số này đã có từ năm
1885: nghĩa là 125 năm qua GHCGVN chưa truyền giáo có hiệu quả.
Số người lớn được Rửa Tội trong ít năm gần đây khoảng
30.000-40.000 người/năm. Năm 2009 có số lớn nhất là 43.608 người và tổng số
người được Rửa Tội, cả trẻ nhỏ lẫn người lớn, là 174.171. Vậy số người bỏ đạo
cũng không kém nếu tỷ lệ người theo đạo vẫn giữ nguyên. Đến các lớp giáo lý tân
tòng ta sẽ thấy hầu hết người lớn muốn trở lại đạo là để lập gia đình với người
có đạo.
Số người trở lại đạo không tương xứng với số người lo việc
truyền giáo, nếu ta tổng cộng số giám mục, linh mục, chủng sinh, tu sĩ nam nữ
và giáo lý viên trong cả nước hay một giáo phận. Đó là chưa kể cả trăm ngàn
đoàn viên của các hội đoàn Công giáo Tiến hành gồm 21 đoàn thể và 5 giới như
Nghĩa binh Thánh Thể, Legio Mariae, Gia đình Phạt tạ, Giới trẻ Con Đức Mẹ, các
hội dòng Ba Phan Sinh, Đa Minh, Cát Minh, Mến Thánh Giá Tại Thế… Vậy cần tổ
chức đời sống và sinh hoạt của họ thế nào cho kết quả về mặt truyền giáo?
Xét về mặt tổ chức hoạt động
HĐGM hiện nay có 17 uỷ ban, tính cả Uỷ ban Công lý và Hoà
bình mới thành lập, nhưng các uỷ ban này đang hoạt động thế nào, có hiệu quả
thiết thực ra sao thì cũng cần nghiên cứu và quy định rõ trong Quy chế và Nội
quy của HĐGM. Hiện nay quy chế này quá ngắn gọn và đơn giản khiến cho hoạt động
của nhiều uỷ ban chưa hiệu quả.
Một trường hợp cụ thể là Uỷ ban Giáo dân có mặt ngay từ năm
1980. Thế nhưng 30 năm qua do sự thay đổi liên tục người lãnh đạo cũng như
những người điều hành là tổng thư ký, thư ký nên kết quả hoạt động hầu như chưa
có là bao, để mặc 6 triệu giáo dân “bơi” trong dòng chảy thời đại. Thậm chí Quy
chế Giáo dân, Quy chế Hội đồng Giáo xứ vẫn chưa làm xong. Uỷ ban Phụng tự chưa
hoàn thành được bản dịch Sách lễ, dù đã làm việc lâu năm, nguyên nhân không
phải vì thiếu nguồn lực vật chất mà vì chưa có sự hợp tác quảng đại giữa những
con người với nhau.
Cách thức chỉ định người điều hành các uỷ ban cũng nên xem
xét lại. Do nhiệm kỳ chủ tịch uỷ ban hiện nay là 3 năm, nên vị giám mục được
bầu làm chủ tịch uỷ ban có thể chọn một người mới làm tổng thư ký điều hành.
Thế là mọi chuyện lại bắt đầu lại, nhiều công trình bỏ dở dang.
Chúng con xin lỗi tất cả để nói lên những thiếu sót này,
không phải có ý chê trách riêng một uỷ ban nào nhưng chúng con mong thấy có sự
thay đổi cách tổ chức, quản lý, điều hành trong nội bộ GH cho hoạt động hiệu
quả hơn.
3.2. Các thành phần nhân sự
- Giám mục
GHVN hiện nay có tất cả 43 vị lãnh đạo, nhưng các giám mục
là ai, được tuyển chọn như thế nào? Cách hành xử có được cộng đồng giúp đỡ và
vâng phục không? Tại sao lại có một số hành động của giám mục bị cộng đồng phản
đối nặng nề đến thế? Làm thế nào để giúp đỡ các giám mục vượt qua khó khăn?
Những câu hỏi mà chúng ta đặt ra cho các giám mục có thể bị
coi là vô lễ, bất kính, phạm thượng nhưng nếu các giám mục là đầu của Thân thể
Mầu nhiệm, là người lãnh đạo cộng đồng tích cực đổi mới thì cộng đồng Dân Chúa
và GHVN mới mong có một sự thay đổi nhanh chóng và hiệu quả.
Tính từ năm 1960 đến 1975, việc lựa chọn các giám mục ở VN
có nhiều yếu tố thuận lợi khách quan nhờ có sự hiện diện của vị Khâm sứ Toà
Thánh và văn phòng khâm sứ cố vấn cho ngài. Từ sau biến cố 1975, việc chọn lựa
này có sự thay đổi theo chiều hướng khác do tác động cá nhân của từng giám mục,
do áp lực của những phe nhóm trong giáo phận và sự can thiệp của chính quyền,
dù rằng chẳng ai dám thừa nhận điều này.
Chúng ta thử đưa ra một thí dụ để thấy những tác động dây
chuyền liên can đến việc lựa chọn giám mục: giám mục một giáo phận nhận thấy
cần có thêm một vị giám mục phụ tá chuẩn bị cho tương lai nên xin ý kiến các
linh mục trong một tuần tĩnh tâm bằng phiếu kín. Các linh mục được đề cử 3 người.
Đây chỉ là việc tham khảo ý kiến cộng đồng linh mục, còn quyền quyết định chọn
người giới thiệu sang Toà Thánh vẫn là của giám mục. Sau khi kiểm phiếu, có 3
người xứng đáng được đề cử. Do sự rò rỉ thông tin, người ta đồn vị này vị nọ.
Thế là có sự bàn tán đủ loại với ý kiến khen chê khác nhau. Chính quyền cũng
rất quan tâm nên tham gia bằng cách gợi ý chọn người theo quan điểm của mình,
nhất là khi chính quyền được Toà Thánh
Đưa ra thí dụ trên không phải để chúng ta mất lòng tin và
hy vọng vào sự dẫn dắt đầy quyền năng Chúa đối với GH của Ngài, nhưng chỉ để
cộng đồng Dân Chúa cùng nâng đỡ nhau, cầu nguyện cho nhau, khiêm tốn phục vụ
nhau vì tất cả đều là những con người yếu đuối.
- Linh mục, chủng sinh và tu sĩ nam nữ (TLLV, số 16)
GHVN có 3.902 linh mục và 3.773 chủng sinh lớn nhỏ. Đây là
một nguồn nhân lực hết sức quan trọng có thể làm thay đổi lớn lao GH. Nếu tính
thêm 16.759 nam nữ tu sĩ nữa thì nguồn lực này có thể tạo nên những chuyển biến
nhanh chóng cho cả dân tộc VN.
Chúng con chỉ đề nghị một điểm cơ bản: xin cho các người
này được đào tạo vững chắc về Kitô học để có thể xuất phát lại từ Đức Kitô như
GH mong mỏi.
Kitô giáo đặt nền tảng trên Đức Kitô và môn học về Người là
quan trọng nhất, nhưng hiện nay môn Kitô học là môn học yếu kém và thiếu sót
nhất trong các chương trình đào tạo thần học ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài.
Người ta tập trung cho Lời Chúa, hiểu theo nghĩa các bản văn Thánh Kinh, chứ
không hiểu Lời Chúa là một ngôi vị, một con người sống động là Đức Giêsu
Nazareth, cần tìm hiểu, gặp gỡ, tiếp xúc và yêu mến. Những học viên các lớp
thần học 3 năm hiện nay học khoảng 300 tiết với 10 môn Kinh Thánh (Nhập môn Tân
Ước – Cựu Ước, Ngũ Thư, các sách Ngôn sứ, các sách Văn chương, Thánh vịnh, Lịch
sử Cứu độ, Bốn Phúc Âm, Công vụ Tông đồ, Các thư Phaolô, Khải Huyền, Các thư
Mục vụ) trong khi chỉ có 60 tiết dành cho môn Kitô học. Các chủng sinh còn học
nhiều hơn. Nội dung Kitô học lại nghèo nàn, có nhiều điểm cần sửa chữa nhưng
nhiều người không để ý đến. Chúng con đã trình bày về vấn đề này trong tập tài
liệu Tình Bác ái Đức Kitô thúc đẩy chúng ta (x. số 11) trong bài Hiệu quả
truyền giáo ở Việt
- Tín hữu giáo dân (TLLV số 24,37)
GHVN có khoảng 6 triệu tín hữu giáo dân. Đây là thành phần
cơ bản làm nên GHVN và đổi mới xã hội nhưng hình như lại ít được quan tâm nhất.
Chúng con mời gọi quý đại biểu nhìn lại gương sống của tổ tiên Công giáo chúng
ta trong thời kỳ 1615-1885 cũng như bài học kinh nghiệm của người tín hữu Công
giáo Hàn Quốc với những thành công vượt bậc trong giai đoạn đương thời
1960-2010. Chúng con đã trình bày trong bài Từ kinh nghiệm truyền giáo ở Việt
Từ đó chúng con đề nghị với các vị lãnh đạo GHVN đừng quá
tập trung cho việc xây dựng cơ sở vật chất, cho những nghi lễ phụng tự hoành
tráng bên ngoài, cho những buổi lễ kỷ niệm mang tính hình thức mỗi dịp Ngân
khánh, Bổn mạng, Sinh nhật, Chịu chức, Khấn dòng… để tập trung nguồn nhân lực
giúp cho người tín hữu học hỏi về Đức Giêsu Kitô, học hỏi về những giá trị sống
của Tin Mừng và những kỹ năng sống cần thiết để diễn tả các giá trị ấy.
Giống như các tín hữu tổ tiên thời xưa, cộng đồng tín hữu
giới thiệu Thiên Chúa và Đức Giêsu là nguồn chân thiện mỹ, nguồn sự sống và
hạnh phúc vĩnh hằng qua những con người khoẻ mạnh, xinh đẹp, học hành giỏi
giang, làm việc hăng say và vô vị lợi, trung tín trong tình bạn, trong sáng
trong tình yêu, cao thượng trong hành động, dám hy sinh vì đại nghĩa nhờ sống
và thực hiện đúng những giá trị sống của Tin Mừng. Chỉ có những con người thực
tế như vậy mới có sức thuyết phục đồng bào Việt Nam tin vào Thiên Chúa và vào
Đức Kitô Giêsu của Ngài chứ không phải là những thánh đường nguy nga, nghi lễ
long trọng, những bài giáo lý cao siêu, những kiểu sinh hoạt đoàn thể nặng hình
thức quảng cáo.
Một thí dụ có vẻ tiêu cực nhưng nó minh hoạ cho điều trình
bày của chúng con: Trong bảng tổng kết 26 giáo phận: Giáo phận Huế có 68.560
tín hữu, 2 giám mục, 136 linh mục, 64 chủng sinh lớn nhỏ, 92 tu sĩ nam, 967 tu
sĩ nữ, 69 tu sĩ thuộc tu hội đời, 786 giáo lý viên. Thế nhưng cả năm 2009 chỉ
có 94 người lớn được Rửa Tội. Cả năm 2008 cũng chỉ có 106 người. Con số này đặt
cho ta câu hỏi: Người tín hữu sống như thế nào để thu hút người khác theo Đức
Kitô? Những cuộc hành hương Đức Mẹ La Vang với hàng trăm ngàn người và tốn kém
hàng trăm tỷ đồng có kết quả như thế nào?!
Những tín hữu trong các nước Kitô giáo đã từng trải qua
kinh nghiệm này. Họ đang bỏ dần Kitô giáo chỉ vì không còn thấy những chứng
nhân đích thực của Tin Mừng. Và Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã nhận ra được sự
thật để mời gọi chúng ta quay trở lại với Thiên Chúa Tình yêu và Đức Giêsu
Kitô, tình yêu cụ thể của Thiên Chúa.
4. DÂN TỘC VIỆT
Nếu chúng ta nhận ra GHVN đang ở giữa lòng dân tộc gồm
những người VN yêu tha thiết quê hương và muốn xây dựng cho đất nước này mỗi
ngày một tươi đẹp, phát triển bền vững thì phần nói về sứ vụ (chương 3) của tập
TLLV cần trình bày rõ ràng và cụ thể hơn.
- Để giúp các đại biểu tham dự Đại hội Dân Chúa, chúng con
xin giới thiệu các phần đã trình bày về tình trạng xã hội VN trong các thời kỳ
1960-1975, 1978-1990 và 1990-2010 trong tập tài liệu đính kèm, từ số 83-89.
- Chúng con cũng giới thiệu những vấn đề xã hội đáng lưu
tâm như những chủ đề cần GHVN suy nghĩ cho sứ mạng rao giảng Tin Mừng của mình
như:
4.1. Chế độ chính trị: chế độ Nhà nước pháp quyền đặt nền
tảng trên ý thức hệ Cộng sản chủ trương duy vật, vô thần, áp dụng một nền giáo
dục theo đúng ý thức hệ chủ nghĩa xã hội. Đây là những điểm cơ bản mà GHCG cần
giúp cho người tín hữu Công giáo hiểu về Nước Trời hay Nước Thiên Chúa mà mình
đang tham gia xây dựng ngay trong cuộc đời trần thế, vượt lên trên mọi ý thức
hệ hay chủ nghĩa, hệ thống chính trị kinh tế nào. Các bài này được cuốn Tóm
lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo trình bày rất rõ ràng nhưng TLLV
của Đại hội ít quan tâm trích dẫn.
4.2. Dân số và phụ nữ: nếu nhìn gần hơn về dân tộc VN với
con số 86.024.000 người, tính đến 31-12-2009, trong đó có 42.597.200 nam
(49,52%) và 43.427.400 nữ (50,48%) để thấy nhiều vấn đề phụ nữ cần GH quan tâm
(x. số 102) như vấn đề bạo hành trong gia đình, mại dâm, lấy chồng nước ngoài,
sống bám vào một người đàn ông mà không lập gia đình. Nhiều phụ nữ bị mắc bệnh
vì thiếu hiểu biết, thiếu nước sạch, nhiều người bị bệnh tâm thần.
4.3. Giới trẻ và vấn đề giáo dục (TLLV số 26,30): dân số VN
là một dân số trẻ vì số người dưới 35 tuổi chiếm hơn 60%. Một phần tư dân số
đang đi học. Năm 2009 với 14.912.100 học sinh của 3 cấp và 1.796.200 sinh viên
của 403 trường đại học và cao đẳng, cộng thêm 699.700 học sinh trung cấp chuyên
nghiệp của 282 trường. Tuy nhiên, rất nhiều vấn đề liên quan đến giáo dục và
giới trẻ cần được GHCGVN góp sức giải quyết như trợ giúp các học sinh nghèo/bỏ
học, nhất là ở vùng sâu vùng xa, ngăn chặn các tệ nạn xã hội liên can đến việc
giáo dục như xem những phim ảnh đồi truỵ, sống buông thả để hưởng thụ vật chất,
đánh/giết nhau, trò chơi trực tuyến, số trẻ vị thành niên phá thai, nhiễm HIV
ngày càng tăng (x. Tài liệu đính kèm, số 98).
4.4. Lĩnh vực dân số, lao động, di dân (TLLV số 31): dân số
VN năm 2009 có tới 29,6% dân sống ở thành thị và 70,40% ở nông thôn. Số tăng
trưởng trong 10 năm qua tương đối chậm vì vào năm 2000 số người ở thành thị là
24,12% và nông thôn là 75,88%. Nhưng nếu tính số người lao động từ 15 tuổi trở
lên đang làm việc năm 2009: 47.743.600 người thì người làm nghề nông và lâm
nghiệp chiếm 48,2% và thuỷ sản 3,7% như thế số dân ở nông thôn hoặc thất nghiệp
hoặc bỏ lên thành thị đi làm ở ngành nghề khác là khá lớn. GHVN đã có những
chương trình gì đặc biệt cho những người sống ở nông thôn để có thể phát triển
toàn diện và bền vững vì đa số là những người nghèo, trình độ văn hoá thấp? (x.
Tài liệu đính kèm, số 97,99,100).
4.5. Các người nghèo và những vấn đề xã hội (TLLV số 23):
UBBAXH-Caritas VN đã xác định những người nghèo cần được nghe GHVN loan báo Tin
Mừng là những người thiếu thốn về vật chất và tinh thần (x. Tài liệu đính kèm,
số 174: Caritas như vận hội mới cho Giáo Hội). Việt
- Chúng ta có thể nói rằng đối tượng của UBBAXH-Caritas VN
là những người nghèo, những người đang gánh chịu sự bất công và bất an, còn đối
tượng của Uỷ ban Công lý và Hoà bình là chính những người đang gây nên những
bất công và bất an đó, những người đang trục lợi, xúc phạm đến phẩm giá và
quyền con người. Những chủ thể này có thể là những người nắm giữ quyền hành
trong chính quyền, nhưng cũng có thể là bất cứ ai trong xã hội và cả GH đang
gây ra bất an và bất công. Từ những lời nói, bài báo, cử chỉ đe doạ, xúc phạm,
nói dối, nói xấu người khác đến những hành động buôn bán hàng xấu, hàng giả,
hàng độc hại của các nhà thương mại, đến những người nông dân đang sử dụng bừa
bãi phân bón hoá học, thuốc diệt cỏ, trừ sâu làm hại sự sống con người. Cả hai
uỷ ban có thể có chung một linh đạo bác ái, là con đường tình yêu rộng mở của
Đức Kitô, như một phương thuốc vừa chữa trị bất công, bất an vừa đem lại công lý,
hoà bình và sự phát triển bền vững cho mọi người.
4.6. Tôn giáo (TLLV số 21): chúng ta cũng nên ghi nhận rằng
rất nhiều đồng bào theo ý thức hệ Cộng sản đang muốn bày tỏ niềm tin tưởng của
mình vào thế giới tâm linh, công khai tham dự các nghi lễ tôn giáo, nhất là của
Phật giáo, xây dựng hàng trăm chùa chiền, nhất là các chùa lớn như Chùa Bái
Đính ở Ninh Bình, Chùa Long Động ở núi Yên Tử - Quảng Ninh cũng như hàng chục
thiền viện trên đất nước. Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng Con người thuộc Viện
Nghiên cứu Vật lý ở Hà Nội cũng giới thiệu rất nhiều những hoạt động cổ vũ cho
niềm tin này.
Dân tộc VN hiện nay, theo Kết quả Tổng Điều tra Dân số năm
2009, có 6.802.318 người theo Phật giáo (7,92%), 5.677.086 theo Công giáo
(6,61%), 1.433.252 theo Phật giáo Hoà Hảo (1,66%), 807.915 theo đạo Cao Đài,
734.168 theo Tin Lành (0,8%), 75.268 theo Hồi giáo, 56.427 theo Bà La Môn giáo
và các đạo nhỏ khác. Tổng số những người có tôn giáo là 15.651.467 trên tổng số
85.846.997 người, tính vào thời điểm 1-4-2009. Như thế, số người có tôn giáo
trong cả nước chiếm 18,23%, số còn lại không xác định tôn giáo và rất nhiều
người theo đạo ông bà tổ tiên. Đây là một trách nhiệm lớn và cũng là một lợi
thế lớn cho sứ mạng truyền giáo của GHVN vì hơn 81% dân số chưa xác định được
tín ngưỡng của mình (x. Ban Chỉ đạo Tổng Điều tra Dân số, Tổng Điều tra Dân số
năm 2009, NXB Thống Kê, Hà Nội, 8-2010, tr. 281).
Để có thể giới thiệu khuôn mặt Đức Giêsu Kitô cho những
người ngoài Công giáo hay không có tôn giáo, mọi thành phần trong GHVN cần phải
hiểu đúng và hiểu rõ về Đức Giêsu, trở lại với Người để nhận được tình yêu, ân
sủng, quyền năng như các tông đồ xưa rồi mới xuất phát lại từ Đức Kitô để đến
với muôn dân như Giáo Hội Mẹ đang mong đợi (x. Tập tài liệu đính kèm Tình bác
ái Đức Kitô thúc đẩy chúng ta, số 13-19) và xây dựng một nền văn hoá nhân bản
tâm linh như cha ông chúng ta từng làm trước đây (x. Tập tài liệu đính kèm, số
41-46).
4.7. Vấn đề môi trường (TLLV số 28): chúng ta được mời gọi
để nhìn vào đất nước VN như môi trường sống cho toàn thể dân tộc và GH để yêu
thương, bảo vệ, gìn giữ và làm cho đất nước phát triển về mọi mặt. Tập TLLV ở
số 28 đã nói đến các vấn đề môi sinh. Trong tương quan với vạn vật, người tín
hữu Công giáo không chỉ coi vạn vật và thế giới vật chất như những loài vô tri
vô giác để khai thác cạn kiệt và bắt chúng phải phục vụ con người. Trong tương
quan mới mẻ đối với vạn vật, con người giữ tinh thần huynh trưởng vì Thiên Chúa
Tạo Hoá đã giao phó vạn vật trên trái đất cho nhân loại để thay Ngài quản trị
muôn loài (x. St 1,26-28; Kn 2,2-23) và loan báo Tin Mừng cho muôn loài thụ tạo
(x. Mc 16,15).
Chỉ có tình yêu thương thật sự như những anh chị lớn săn
sóc đàn em nhỏ của mình, con người mới có thể tác động tốt đẹp lên thiên nhiên
như Đức Giêsu đã làm cho gió yên biển lặng, bánh cá hoá nhiều. Chỉ có tình yêu
mới thúc đẩy con người chuyên cần học hỏi, nghiên cứu vạn vật qua những khoa
học tự nhiên để càng ngày càng biết rõ hơn về những người em của mình cũng như
tích cực lao động để làm cho vạn vật phát triển theo chiều hướng tốt đẹp, bảo
vệ môi trường sống cho xanh, sạch và an lành.
4.8. Tinh thần ái quốc đích thực: như Đức Giêsu đã yêu
thương dân tộc Do Thái và khóc thương thành Giêrusalem (x. Lc 19,41-44), người
Công giáo VN không thể thờ ơ trước những nguy hiểm, xâm lấn mà dân tộc có thể
gặp phải do những nước láng giềng gây nên, do những khai thác khoáng sản thiếu
an toàn, do những hoạt động kinh tế bất chính và bất công khi buôn bán những
mặt hàng nguy hiểm độc hại cho các thế hệ đang sống và cả con cháu sau này.
5. MỘT VÀI ĐỀ NGHỊ CỤ THỂ CHO VẬN HỘI MỚI CỦA
GIÁO HỘI VÀ ĐẤT NƯỚC VIỆT
5.1. Tăng cường việc dạy môn Kitô học cho mọi thành phần
Dân Chúa, nhất là cho các linh mục, chủng sinh, tu sĩ vì đây là môn học nền
tảng của Kitô giáo.
5.2. Để chuẩn bị thực hiện đề nghị này, các nhà thần học VN
nên hợp tác để soạn thảo một giáo trình Kitô học cơ bản với những điểm mới mẻ
được Huấn quyền Giáo Hội trình bày trong các tài liệu gần đây.
5.3. Nên đưa những tổng hợp giáo huấn mới mẻ sau đây của
ĐTC Bênêđictô XVI vào chương trình đào tạo nhân sự:
+ Thiên Chúa Tình yêu là điểm hội tụ cho mọi hoạt động của
GH.
+ Bản chất của GH cũng như của tín hữu gồm 3 yếu tố liên
kết mật thiết với nhau: đời sống phụng tự, hoạt động bác ái, rao giảng Tin
Mừng.
+ Tập nhìn mọi vấn đề một cách thực tế khách quan theo
nguyên tắc Bác ái trong Sự thật.
+ Tập thái độ khiêm tốn phục vụ với nhận thức rằng GH chỉ
tồn tại nếu mang lại ơn cứu độ cho con người vì con người là con đường của GH
và cũng là con đường của Thiên Chúa.
+ Tập thái độ biết cộng tác chân thành và dám hy sinh vì
ích lợi chung để vượt qua những thiếu sót trong cấu trúc tâm lý xã hội của
người VN.
5.4. Nên thay đổi cơ cấu tổ chức của HĐGM thế nào cho có sự
tham gia tích cực và hiệu quả của các linh mục và giáo dân qua các uỷ ban của
HĐGM. Thí dụ như việc tham gia trình bày, đóng góp ý kiến trong các hội nghị
thường niên.
+ Nhiệm kỳ của các vị lãnh đạo như chủ tịch, tổng thư ký
của HĐGM cũng như của mỗi uỷ ban nên sửa thành 4 năm hoặc 5 năm để tạo một
khoảng thời gian đủ dài cho các kế hoạch thực hiện.
+ Nên có những chỉ tiêu rõ ràng cho mỗi kế hoạch 5 năm của
HĐGM cũng như của mỗi uỷ ban. Thí dụ về mặt truyền giáo, sau 5 năm 2010-2015,
tỷ lệ dân số Công giáo tăng 1% so với dân số cả nước. Muốn thế, cần phải có
những biện pháp thực hiện. Thí dụ: mỗi tín hữu hay gia đình Công giáo kết thân
với 1 người ngoài Công giáo để giới thiệu những giá trị Tin Mừng cho họ.
5.5. Nên quan tâm đến vấn đề ngôn ngữ trong các văn bản
quan trọng của HĐGM cũng như của mỗi uỷ ban khi thông báo cho quảng đại quần
chúng. Thí dụ về cách đánh dấu trên các nguyên âm, cách viết chữ hoa và tên
riêng tiếng nước ngoài đã được quy định bởi các văn bản chính thức của Nhà Nước
cũng như được các từ điển của Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Bách khoa Việt Nam
hướng dẫn.
Kết luận
Sau những giờ cầu nguyện và suy nghĩ, UBBAXH-Caritas VN
chúng con mạnh dạn trình bày lên Đại hội Dân Chúa những thao thức về sự phát
triển của Giáo hội cũng như Dân tộc Việt
Kính chúc Đức Hồng y, Quý Đức cha và toàn thể Quý Đại biểu
luôn an mạnh và tràn đầy ơn Chúa. Kính chúc Đại hội Dân Chúa thành công tốt
đẹp.
[Số lần đọc 89]
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn
Nguồn:
daihoidanchua.net