Phụng tự tại Việt Nam trong 50 năm qua (1960-2010) (I)
Với Sắc chỉ "Chư Huynh Đáng Kính"
(Venerabilium nostrorum) ngày 24 tháng 11 năm 1960, Đức Thánh Cha Gioan
XXIII đã chính thức thành lập hàng Giáo phẩm tại Việt Nam. Tính đến nay là 50
năm. Vì thế cũng là dịp để nhìn lại việc thực thi các giáo huấn của Công đồng
chung Vaticanô II, trong đó có việc cử hành và sống phụng vụ tại Việt Nam, nhất
là từ sau khi ban hành Hiến chế về Phụng vụ [1].
Trong thời gian trước Công đồng Vaticanô
II, tức là trước năm 1962, năm khai mạc Công đồng, hay cho đúng hơn, trước khi
Công đồng công bố Hiến chế về Phụng vụ Sacrosanctum Concilium, ngày 4
tháng 12 năm 1963, giáo dân tại Việt Nam cũng như toàn thể Giáo Hội trên thế
giới, đã tham dự vào việc cử hành phụng vụ được thực hiện theo những sách phụng
vụ và nghi lễ từ Công đồng Triđentinô (1545-1563): Tất cả phụng vụ được cử hành
bằng tiếng Latinh; các thừa tác viên là linh mục, phó tế, phụ phó tế, và các
chức nhỏ như thầy giúp lễ, đọc sách, trừ quỷ và giữ cửa. Ngoài ra còn có chức
cắt tóc và các chú giúp lễ. Vai trò của ca đoàn được coi trọng và hát những bài
thánh ca trong phụng vụ bằng tiếng Latinh và đôi khi là những bài thánh ca đa âm.
Lời Chúa cũng được công bố bằng tiếng Latinh.
Giáo dân Việt
Song song với các buổi cử hành phụng vụ,
còn có những buổi cử hành các việc đạo đức bình dân rất thịnh hành và giáo dân
tham dự cách sốt sắng: như lần hạt, ngắm đàng Thánh giá, giữ các ngày thứ năm,
thứ sáu và thứ bảy đầu tháng, các cuộc rước kiệu, giữ các tháng hoa, tháng Mân
Côi, ngắm thương khó, các tuần chín ngày, tam nhật, các phiên chầu lượt…
Các Giám mục cử hành lễ đại triều tại
nhà thờ chánh tòa, hay khi đi thăm mục vụ các họ đạo, với những nghi lễ thật
trang trọng và có tính cách huyền nhiệm.
Tất cả những điều này, những ai ngày nay
sống vào thế hệ sáu mươi có thể nhận ra được cách rõ rệt sự khác biệt giữa việc
cử hành phụng vụ trước và sau công cuộc canh tân phụng vụ này.
Ngày 4 tháng 12 năm 1963, văn kiện đầu
tiên của Công đồng Vaticanô II được công bố là Hiến chế về Phụng vụ: “Sacrosanctum
Concilium” (Thánh Công đồng). Với hiến chế này, Công đồng đã muốn đánh giá
đúng mức việc cử hành phụng vụ, vì là “chóp đỉnh” mọi sinh hoạt của Giáo Hội và
là “nguồn” mọi sức mạnh và ơn thánh cho Giáo Hội (x. PV 7). Hiến chế cũng nhấn
mạnh tới việc tham gia tích cực của tín hữu vào buổi cử hành phụng vụ [1]. Lời
Chúa cũng là một ưu tư lớn của Công đồng trong các buổi cử hành phụng vụ (x. PV
24). Từ đây, sinh hoạt phụng vụ trong Giáo Hội có những đổi thay.
Tại Việt
Phụng vụ rất được chú trọng trong đường
hướng chung của Giáo Hội địa phương, đặc biệt trong các cử hành và chầu Thánh
Thể. Các tín hữu đến nhà thờ vào các Chúa nhật và lễ trọng chiếm khoảng 85%.
Nhiều người tham dự các Thánh lễ ngày trong tuần. Các bí tích và đời sống cầu
nguyện được xem như những phương tiện hiệu quả để canh tân đời sống, và mang
lại sức mạnh nội tâm để nhiệt thành phục vụ Giáo Hội và xã hội [4].
Người công giáo Việt
Trong cộng đoàn các dòng tu, chủng viện
và các nơi chuyên về đào tạo, các đền thánh và nhà tĩnh tâm, các cử hành phụng
vụ được chuẩn bị cách chu đáo và được xem như trung tâm của các sinh hoạt hàng
ngày.
Có thể nói rằng các cử hành phụng vụ
trên khắp đất nước Việt
Việt
– Cử hành ngày Chúa Nhật: Có nhiều sáng kiến
giúp năng động các cử hành phụng vụ, đặc biệt là vào ngày Chúa Nhật. Nhiều nhà
thờ ở thành phố phổ biến các tờ bướm ghi các văn bản Kinh Thánh và các bài suy
niệm để giúp giáo dân có phương tiện học hỏi Lời Chúa và tham dự cách tích cực
hơn vào các cử hành. Thông thường, các ca đoàn chuẩn bị tốt các bài hát thích
hợp cho mỗi cử hành. Cộng đoàn phụng vụ thưa kinh rập ràng và sốt sắng, cách
riêng trong lời đáp lại các ý nguyện của lời nguyện tín hữu. Nhiều nơi tổ chức
dâng lễ với vũ điệu.
– Các sùng kính bình dân: những hình thức sùng
kính bình dân phổ biến nhất là việc tôn kính Thánh Thể, Thánh Tâm, Lòng Chúa
Thương xót. Mỗi giáo xứ có các đoàn thể như Thiếu nhi Thánh Thể, Legio
Mariae, Dòng ba Đức Bà Núi Cát Minh, Dòng ba Phanxicô, Dòng ba Đaminh, Các
Bà mẹ Công giáo, Gia đình Phạt tạ Thánh Tâm, Mến Thánh Giá Tại thế. Thành viên
của các đoàn thể này đóng một vai trò quan trọng trong việc năng động các cử
hành phụng vụ tại giáo xứ.
Năm 1968, Hội đồng Giám mục miền Nam
Việt Nam đã xin Tòa Thánh một số năng quyền và một số điểm để thực thi ngay
trước khi các sách phụng vụ và các nghi thức được Tòa Thánh tu chính và công
bố. Chúng ta sẽ lần lượt nhìn lại sinh hoạt phụng vụ này.
Với Sắc Lệnh (Decretum typicum)
mang số @ [5] Prot. 787/64 ngày 15-6-1964, Tòa Thánh cho phép Hội đồng Giám mục
miền Nam Việt Nam được dùng tiếng Việt và một số ngôn ngữ khác của các dân tộc
ít người, trong các buổi cử hành phụng vụ theo như các chỉ thị của Hiến chế về
phụng vụ và của Tòa Thánh [6]. Từ đây lần lượt các bản dịch sang tiếng Việt đã
được thực hiện, theo như các sách phụng vụ Latinh được công bố cho toàn thể
Giáo Hội.
– Năm 1965, một số bản
dịch tạm và hiện có đã được phép dùng ngay, trong khi chờ đợi các sách phụng vụ
Latinh được tu chính và công bố theo chỉ thị của Công đồng Vaticanô II, như bản
dịch “Các thư Thánh Phaolô và các Phúc âm” cho ngày Chúa Nhật, do nhà in Tân
Định ấn hành; “Sách Lễ nhỏ” do linh mục P.A.X. và tủ sách Ra Khơi ấn hành;
“Sách Lễ” do nhà xuất bản An-Phong ấn hành; “Sách Lễ” do nhà xuất bản Hiện Tại
ấn hành [7].
– Ngày10-9-1965, Tòa
Thánh đã cho phép dùng tiếng bản xứ trong các phần của Thánh lễ: các thánh ca
riêng cho từng lễ nghi, các lời nguyện và các Kinh tiền tụng [8].
– Ngày 1-2-1968, Tòa
Thánh chuẩn y bản tiếng Việt Các Lời nguyện chung ngày Thứ sáu Tuần thánh [9].
– Ngày 22-4-1971, Tòa
Thánh chuẩn y bản dịch tiếng Việt Sách Lễ Rôma theo ấn mẫu Latinh thứ nhất,
được tu chính sau Công đồng Vaticanô II [10].
– Ngày 7-4-1988, Tòa
Thánh đã chuẩn y cho phép dùng tạm bản văn Thánh lễ tiếng Việt kính Thánh Anrê
Dũng Lạc, linh mục, và các Bạn tử đạo [11].
– Ngày 3-11-1988, Tòa
Thánh đã chuẩn y cho phép dùng tạm bản văn Thánh lễ tiếng Anh và tiếng Pháp,
kính Thánh Anrê Dũng Lạc, linh mục, và các Bạn, tử đạo [12].
– Ngày 24-11-1999, Tòa
Thánh đã chuẩn y bản văn Thánh lễ và Các bài đọc Sách Thánh dùng trong Năm
Thánh 2000 [13].
Ngoài ra còn một số bản dịch tiếng Việt
khác cũng được Tòa Thánh chuẩn y, như:
– Cho tỉnh Dòng Đaminh:
cho dùng tạm bản dịch Việt
– Tỉnh Dòng Chúa Cứu
Thế: chuẩn y bản dịch tiếng Việt bản văn các lễ riêng của Dòng [15].
– Miền Việt
Năm 1971, Ủy ban Phụng tự của Hội đồng
Miền Nam Việt Nam đã cho in và phát hành 24.000 Sách lễ hằng ngày và 25.000
Sách lễ ngày Chúa Nhật; 10.000 cuốn Nghi thức cử hành Bí tích Thêm sức [17].
– Ngày 1-2-1968, chuẩn
y bản dịch tiếng Việt Lễ Quy Rôma (Canon Romanus) [18].
– Ngày 17-6-1968, chuẩn
y bản dịch các Kinh tiền tụng mới [19].
– Ngày 30-7-1969, chuẩn
y bản dịch Nghi thức cử hành Thánh lễ với Giáo dân [20].
– Ngày 7-1-1994, chuẩn
y bản dịch tạm thời các Kinh Nguyện Thánh Thể dùng trong Thánh lễ cử hành với
trẻ em, Thánh lễ Hòa giải, Thánh lễ cầu theo các nhu cầu khác nhau [21].
– Ngày 10-05-2005,
chuẩn y bản dịch Nghi thức Thánh lễ [22].
– Ngày 1-4-1970, Tòa Thánh chuẩn y bản
dịch tiếng Việt Sách các Bài đọc trong Thánh lễ, Mùa chay và Mùa Phục Sinh. Sau
đó là các phần khác của Sách Bài đọc trong Thánh lễ [23].
– Ngày 15-4-1964 và 27-2-1965, một số
bản dịch tạm và hiện có đã được phép dùng ngay để cử hành các bí tích và á bí
tích, trong khi chờ đợi các sách phụng vụ Latinh được tu chính và công bố theo
chỉ thị của Công đồng chung Vaticanô II, như bản dịch của Hiện tại để cử hành
bí tích Rửa tội, Hôn phối và nghi thức an táng; bản văn của Tòa Giám mục Vĩnh
Long để cử hành bí tích thêm sức; bản văn của các Cha Dòng Chúa Cứu thế ấn hành
để dùng khi nhắn nhủ và giảng trong Nghi thức Truyền chức [24].
– Ngày 15-5-1967, chuẩn y bản dịch Sách
Nghi thức Thêm sức [25].
– Ngày 15-05-1967, chuẩn y bản dịch Sách
Nghi thức cử hành bí tích hôn phối [26].
– Ngày 15-05-1967, chuẩn y bản dịch Sách
Nghi thức làm phép dầu dự tòng, dầu bệnh nhân và dầu thánh [27].
– Ngày 15-05-1967, chuẩn y bản dịch Sách
Nghi thức đón tiếp giám mục tại giáo xứ [28].
– Ngày 01-02-1968, chuẩn y bản dịch Sách
Nghi thức xức dầu bệnh nhân và việc mục bệnh nhân [29].
– Ngày 31-1-1969, cho phép dùng tạm bản
dịch tiếng Việt một số các chúc lành theo Sách Các Phép Roma [30].
– Ngày 30-07-1969, chuẩn y bản dịch Sách
Nghi thức truyền chức phó tế và linh mục (ấn bản mẫu lần thứ nhất) [31].
– Ngày 30-07-1969, chuẩn y bản dịch Sách
Nghi thức cử hành bí tích hôn phối [32].
– Ngày 1-4-1970, chuẩn y bản dịch Sách
Nghi thức Bí tích rửa tội trẻ con [33].
– Ngày 21-11-1970, chuẩn y bản dịch Sách
Nghi thức an táng [34].
– Ngày 11-1-1972, chuẩn y bản dịch Sách
Nghi thức Thêm sức [35].
– Ngày 11-01-1972, chuẩn y bản dịch Sách
Nghi thức làm phép dầu dự tòng và dầu bệnh nhân, và dầu thánh [36].
– Ngày 07-04-1972, chuẩn y bản dịch Sách
Nghi thức thánh hiến các trinh nữ [37].
– Ngày 07-04-72, chuẩn y bản dịch Sách
nghi thức khấn dòng [38].
– Ngày 10-07-1973, chuẩn y bản dịch Sách
Nghi thức đặt thừa tác vụ đọc sách, giúp lễ; Nghi thức tiếp nhận vào hàng các
ứng viên lên chức phó tế và linh mục; Nghi thức chấp nhận bậc độc thân [39].
– Ngày 13-3-1974, chuẩn y bản dịch Sách
Nghi thức Khai Tâm Kitô giáo cho người lớn [40].
– Ngày 03-10-1974, chuẩn y bản dịch Sách
Nghi thức về việc rước lễ và tôn sùng mầu nhiệm Thánh Thể ngoài Thánh lễ [41].
– Ngày 04-12-1974, chuẩn y bản dịch Sách
Nghi thức Truyền chức giám mục (ấn bản lần thứ nhất) [42]. ** Bản dịch Sách
Nghi thức truyền chức giám mục, linh mục và phó tế (ấn bản mẫu lần thứ II) đã
được Hội đồng Giám mục Nam Việt Nam cho phép dùng tạm, theo đặc ân của Tòa
Thánh ban cho.
– Ngày 04-12-1974, chuẩn y bản dịch Sách
Nghi thức xức dầu bệnh nhân và việc mục vụ bệnh nhân [43].
– Ngày 09-12-1982, chuẩn y bản dịch Sách
Nghi thức đội triều thiên tượng Đức Mẹ [44].
– Ngày 11-12-1982, chuẩn y bản dịch Công
thức giải tội cho từng cá nhân [45].
– Ngày 17-8-1983, chuẩn y bản dịch công
thức giải tội cho nhiều người cùng lúc (giải tội tập thể) [46].
– Ngày 12-12-1985, theo đơn xin của Hội
đồng Giám mục Việt Nam, Tòa Thánh ban cho mọi linh mục và các thừa tác viên
được ủy quyền cử hành Bí tích Rửa Tội đặc ân có thể theo công thức đơn sơ trong
khi rửa tội cho người lớn. Đặc ân này có giá trị cho đến khi hoàn cảnh cho phép
cử hành theo Nghi thức thông thường [47].
– Ngày 20-02-2008, chuẩn y bản dịch Nghi
thức cử hành hôn nhân [48].
– Ngày 15-4-1964 và
27-02-1965, Tòa Thánh đã cho phép các Tu sĩ Nam Nữ dùng tạm bản dịch: Kinh nhật
tụng nhỏ kính Đức Trinh nữ Maria, do Nhà xuất bản Hiện tại và Mai-Lâm Đoàn Văn
Thăng ấn hành [49].
– Ngày 28-11-1968,
chuẩn y bản dịch các thánh vịnh trong cuốn sách “Đức Kitô Lời ca muôn thuở” của
Cha An Sơn Vị (Huế 1966) [50].
– Ngày 07-04-1988,
chuẩn y để dùng tạm bản dịch bản văn các giờ kinh phụng vụ kính Thánh Anrê Dũng
Lạc, linh mục, và các Bạn tử đạo [51].
– Ngày 24-04-1988,
chuẩn y để dùng tạm thời bản dịch tiếng Việt bản văn Phần chung Phụng vụ giờ
kinh và Phần chung các thánh tử đạo [52].
Ngày 3-12-1968, Tòa Thánh chuẩn y bản
dịch tiếng Bahnar các lễ Chúa Nhật và một số lễ khác, Nghi thức cử hành Thánh
lễ (Ordinarium Missae) Lễ Quy Rôma (Canon Romanus) được dùng tại
Giáo phận Kontum [53].
Ngày 30-4-1966, Tòa Thánh chuẩn y bản
dịch tiếng Churu Nghi thức cử hành Thánh lễ (Ordinarium Missae), nghi
thức rảy nước thánh (ritus aspersionis aquae benedictae) và nghi thức
ban phép lành của Giám mục (ritus benedictionis pontificalis) dùng tại
Giáo phận Đà Lạt [54].
Ngày 30-04-1966, Tòa Thánh chuẩn y bản
dịch tiếng K’Ho Nghi thức cử hành Thánh lễ (Ordinarium Missae), nghi
thức rảy nước thánh (ritus aspersionis aquae benedictae), nghi thức ban
phép lành của Giám mục (ritus benedictionis pontificalis), Sách lễ Rôma
các ngày Chúa Nhật và một số lễ, các ngày trong tuần Mùa Chay; Nghi thức an
táng và Thánh lễ an táng, được dùng tại Giáo phận Đà Lạt [55].
Ngày 3-11-1966, Tòa Thánh phê chuẩn bản
dịch tiếng K’Ho phần các lễ các Thánh (Commune Missarum Sanctorum) và
nghi thức cử hành bí tích Thêm sức (ritus confirmationis), được dùng tại
Giáo phận Đà Lạt [56].
Ngày 18-11-1971, Tòa Thánh phê chuẩn bản
dịch tiếng K’Ho-pom Nghi thức cử hành Thánh lễ (Ordo Missae), được dùng
trong Giáo phận Đà Lạt [57].
Ngày 15-6-1964 và 27-2-1965, Tòa Thánh
cho phép dùng tiếng Pháp trong phụng vụ tại Việt
Ngày 15-6-1964 và ngày 27-2-1965, Tòa
Thánh cho phép dùng tiếng Anh trong phụng vụ tại Việt
Ngày 15-6-1964 và ngày 27-2-1965, Tòa
Thánh cho phép dùng tiếng Trung Hoa trong phụng vụ tại Việt
Cùng những ngày này, Tòa Thánh cũng cho
phép dùng các sách để cử hành các bí tích và á bí tích bằng tiếng Anh, Pháp và
Trung Hoa, trong đó cũng đã cho phép dùng bản dịch được các thẩm quyền liên hệ
chuẩn y [61].
Cho tới năm 1973, hầu hết các sách phụng
vụ tiếng Latinh (ấn bản mẫu) được tu chính sau Công đồng Vaticanô II đã được dịch
sang tiếng Việt. Phải công nhận là bản dịch chưa hoàn hảo, vì nhiều lý do, như
thiếu chuyên môn làm việc thường xuyên, thiếu thời giờ, rồi các khó khăn từ sau
năm 1975. Nhưng các bản dịch này là những kết quả tích cực đã thực hiện tại
Việt
Những cuốn chưa được dịch hoặc chưa được
chuẩn y, như Ordo paenitentiae (1973) [62]; Ordo dedicationis
ecclesiae et altaris (1978); Ordo Lectionum Missae, editito
typica altera (1981); De Benedictionibus (1984); Caeremoniale
Episcoporum (1984); Collectio Missarum de Beata Maria Virgine et
Lectionarium pro Missis de Beata Maria Virgine (1986); De Exercismis et
supplicationibus quibusdam (1999), Liturgia Horarum, Officium
lectionis (các bài đọc Kinh thánh và các Giáo phụ).
Ngày nay, Hội đồng Giám mục đã cho tu
chính lại dần dần các bản dịch trước đây, bắt đầu với Sách lễ Rôma (1992) và
hiện thời đang xem xét lại bản văn này và sẽ cập nhật hóa theo Sách Lễ Rôma, ấn
bản mẫu lần thứ III.
Ngày 07-01-1994, Tòa Thánh đã chấp thuận
tạm thời bản văn tiếng Việt Thánh lễ dịp Tất Niên và Tân Niên âm lịch (x. Sách
Lễ tiếng Việt, năm 1992, trang 1037-1045); Thánh lễ Tết Trung Thu (nt., trang
1046-1047); và Lễ Các Thánh Tử đạo Việt Nam [63] (nt., trang 736-737).
Năm 1988, dịp phong thánh cho 117 vị Tử
đạo tại Việt Nam, Tòa Thánh cũng đã phê chuẩn bản văn tạm thời Thánh lễ các
Thánh Tử đạo [64].
Ngoài ra còn một số bản văn phụng vụ
tiếng Việt khác cũng Tòa Thánh chấp thuận như: Tại Giáo phận Đà Nẵng, ngày
12-06-2000, có bản văn tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Pháp Lời nguyện nhập lễ
kính Chân Phước Anrê Phú Yên, tử đạo [65].
Trong kinh nguyện Thánh thể
Tòa Thánh cũng đã phê chuẩn việc thêm
vào Kinh nguyện Thánh Thể lời cầu cho các người quá cố với công thức như sau:
“… đặc biệt các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ, và thân bằng quyến thuộc chúng
con…”.
Chúng ta thử điểm lại một số các điểm
thích nghi trong Nghi lễ cử hành Thánh lễ mà thẩm quyền Giáo Hội tại Việt
Vào năm 1974, Ủy ban Giám mục về Phụng
vụ, vào ngày 25-09-1974, đã ra thông cáo như sau [66]:
“Ủy ban Giám mục về Phụng vụ xin trân
trọng thông báo: Hội đồng Giám mục Việt Nam, trong phiên họp ngày 12-6-1974,
tại Tu viện Phước Sơn, Thủ Đức, đã đồng ý cho các nơi thí nghiệm những điểm sau
đây:
1) Có thể bái gối hoặc
cúi mình.
2) Có thể sử dụng tiếng
tôi, chúng tôi, hoặc chúng con.
3) Có thể xông hương
như xưa nay, hoặc bỏ hương vào lư, hoặc đốt hương nén (nhang), và cắm vào bát
hương.
Những gì Hội đồng Giám mục chưa cho phép
(như cho rước lễ trong tay…) các nơi chưa được phép áp dụng”.
Vào năm 1992, Ủy ban Phụng tự trực thuộc
Hội đồng Giám mục Việt Nam đã ra thông cáo do Đức cha Bartôlômêô Nguyễn Sơn
Lâm, Chủ tịch, ký tại Đà Lạt ngày 1-1-1992, với những thích nghi như sau:
– Ở số 4 qui định: Trong các Thánh lễ:
a) Dùng kiểu “cúi mình” thay cách “bái
gối”.
b) Dùng chữ “con” thay chữ “tôi” trong
các kinh, trừ trong kinh “Cáo mình” và kinh “Tin kính” (Sách lễ sau này, in sao
thì đọc như vậy).
c) Có thể hoặc dùng “bình hương” hoặc
“xông hương”, hoặc dùng “lư hương” và “dâng hương”.
d) Phụ nữ được đọc bài sách Thánh (trừ
bài Phúc âm, là dành cho Phó tế hoặc Chủ tế, và đọc tại chỗ được chỉ định như
nam giới. Cả hai phải mang y phục đoan trang, xứng đáng.
e) Có thể chỉ đọc hai bài sách Thánh,
khi phải đọc 3 bài (nhưng luôn giữ bài Phúc âm). Và xướng: Trích Sách…hoặc Thư…
Phúc âm hoặc Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo Thánh…
f) Về lời nguyện chung: trong khi chờ
đợi Hội đồng Giám mục công bố một số bản mẫu mới, Hội đồng Giám mục xin mỗi
Giáo phận cố gắng soạn thảo một bản mẫu để tạm dùng trong Giáo phận và để góp
phần xây dựng các bản mẫu chung sau này cho tất cả các Giáo phận.
g) Trong việc ban bình an và biểu thị
bình an, chủ tế và cộng đoàn Giáo Hội trao nhận bình an trong câu chúc: “Bình
an của Chúa hằng ở cùng anh chị em”. Đ/. “Và ở cùng Cha”. Và không làm cử chỉ
khác. Còn sau câu “Anh (chị) em hãy chúc bình an cho nhau”, nói với cộng đoàn
hiện diện, thì:
+ Chủ tế ban hoặc trao hôn bình an cho
mấy vị đồng tế đứng gần (và cho phó tế) bằng kiểu áp má một lần và nói: “Bình
an của Chúa ở cùng cha (thầy)”; “Và ở cùng cha”.
+ Các vị đồng tế khác cũng làm như vậy
cho nhau.
+ Giáo dân quay vào và cúi chào nhau để
biểu thị bình an và bác ái.
– Ở số 6 qui định: “Hội đồng Giám mục
sẽ chỉ thị về các bài hát, đặc biệt các bài ca nhập lễ, dâng lễ, hiệp lễ, Kinh
Lạy Cha trong các Thánh lễ cũng như về cung hát của Chủ tế và các thừa tác viên”.
Theo hai Thông cáo này, chúng ta đã nhận
ra được một số điểm thích nghi đem vào trong Nghi thức cử hành Thánh lễ, theo
văn hóa và truyền thống Việt
–––––––––––––––––––––––––––
[1] Sacrosanctum Concilium, 4-12-1963, từ đây được viết tắt
là PV.
[2] x. PV 14 và các chỗ khác.
[3] Bản Tường trình của Hội đồng Giám mục Miền Nam Việt
[4] x. Thư mục vụ của HĐGMVN, năm 2001, số 21.
[5] @ là ký hiệu để chỉ các bản dịch tiếng Việt của các sách phụng
vụ trước Công đồng Vaticanô II. Tòa Thánh chuẩn y cho phép dùng tạm cho tới khi
các sách phụng vụ được tu chính theo các chỉ thị của Công đồng Vaticanô II và
được dịch sang tiếng bản xứ.
[6] x. Notitiae 1 (1965), 52-53.
[7] Các sắc lệnh số @ Prot. 787/64, ngày 15-4-1964 và @ Prot.
787/65, ngày 27-2-1965, Notitiae 1 (1965) 52-53.
[8] @ Prot. 3436/65, Notitiae 1 (1965) 324-325.
[9] Sắc lệnh số @ Prot. A. 54/68, x. Notitiae 4 (1968) 92.
[10] Sắc lệnh số Prot. 953/71, x. Notitiae 7 (1971) 257.
[11] Sắc lệnh số Prot. CD 269/88, x. Notitiae 24 (1988) 327.
[12] Sắc lệnh số Prot. CD 1413/88, Notitiae 24 (1988) 874.
[13] Sắc lệnh số Prot. 2673/99/L, x. Notitiae 35 (2000).
[14] Sắc lệnh số @ Prot. 2863/65, ngày 16-6-1965, x. Notitiae
1 (1965) 201.
[15] Sắc lệnh số @ Prot. A. 369/67, ngày 12-06-1967 và Prot. n.
436/67, ngày 24-06-1967, x. Notitiae 3 (1967) 334.
[16] Sắc lệnh số @ Prot. A. 191/69, ngày 31-01-1969, x. Notitiae
5 (1969) 73.
[17] Bản báo cáo của Hội đồng Giám mục Miền Nam Việt
[18] Sắc lệnh số @ Prot. A. 54/68, x. Notitiae 4 (1968) 92.
[19] Sắc lệnh số @ Prot. A. 204/68, x. Notitiae 4 (1968)
230.
[20] Sắc lệnh số Prot. 884/69, x. Notitiae 5 (1969) 357.
[21] Sắc lệnh số Prot. 2446/93/L, x. Notitiae 30 (1994) 324.
[22] Sắc lệnh số Prot. 2228/03/L.
[23] Sắc lệnh số Prot. 1519/70, x. Notitiae 7 (1970) 269.
[24] Các sắc lệnh @ Prot. 787/64 và Prot. 787/65, x. Notitiae
1 (1965) 52-53.
[25] Sắc lệnh số @ Prot. A. 344/67, x. Notitiae 3 (1967)
215.
[26] Sắc lệnh số @ Prot. A. 344/67, x. Notitiae 3 (1967)
215.
[27] Sắc lệnh số @ Prot. A. 344/67, x. Notitiae 3 (1967)
215.
[28] Sắc lệnh số @ Prot. A. 344/67, x. Notitiae 3 (1967)
215.
[29] Sắc lệnh số @ Prot. A. 54/68, x. Notitiae 4 (1968) 92.
[30] Sắc lệnh số @ Prot. A. 109/69, x. Notitiae (1969) 70.
[31] Sắc lệnh số Prot. 884/69, x. Notitiae 5 (1969) 357.
[32] Sắc lệnh số Prot. 884/69, x. Notitiae 5 (1969) 357.
[33] Sắc lệnh số Prot. 1519/70, x. Notitiae 6 (1970) 269.
[34] Sắc lệnh số Prot. 3659/70, x. Notitiae 7 (1971) 56.
[35] Sắc lệnh số Prot. 2190/71, x. Notitiae 8 (1972) 111.
[36] Sắc lệnh số Prot. 2190/71, x. Notitiae 8 (1972) 111.
[37] Sắc lệnh số Prot. 506/72, x. Notitiae 8 (1972) 141.
[38] Sắc lệnhh số Prot. 506/72, x. Notitiae 8 (1972) 141.
[39] Sắc lệnh số Prot. 677/73, x. Notitiae 9 (1973) 254.
[40] Sắc lệnh số Prot. 676/73, x. Notitiae 10 (1974) 234.
[41] Sắc lệnh số Prot. 2153/74, x. Notitiae 10 (1974) 400.
[42] Sắc lệnh số Prot. 116/74, x. Notitiae 11 (1975) 105.
[43] Sắc lệnh số Prot. 117/74, x. Notitiae 11 (1975) 105.
[44] Sắc lệnh số Prot. CD 1192/82, x. Notitiae 19 (1983) 19.
[45] Sắc lệnh số Prot. 1133/82, x. Notitiae 19 (1983) 19.
[46] Sắc lệnh số Prot. CD 306/83, x. Notitiae 19 (1983) 563.
[47] Sắc lệnh số Prot. CD 1599/85, x. Notitiae 22 (1986) 10.
[48] Sắc lệnh số Prot. 1407/06/L.
[49] Các Sắc lệnh số @ Prot. 787/64, và Prot. 787/65, x. Notitiae
1 (1965) 52-53.
[50] Sắc lệnh số @ Prot. A. 413/68.
[51] Sắc lệnh số Prot. CD 269/88, x. Notitiae 24 (1988) 394.
[52] Sắc lệnh số Prot. CD 5879/88, x. Notitiae 24 (1988)
394.
[53] Sắc lệnh số Prot. A. 418/68.
[54] Sắc lệnh số Prot. 1226/66.
[55] Sắc lệnh số Prot. 1226/66.
[56] Sắc lệnh số Prot. 2811/66.
[57] Sắc lệnh số Prot. 97/71.
[58] Sắc lệnh số Prot. 787/64 và và số Prot. 787/65, x. Notitiae
1 (1965) 52-53.
[59] Các sắc lệnh số Prot. 787/64 và Prot. 787/65, x. Notitiae
1 (1965) 52-53.
[60] Các sắc lệnh số Prot. 787/64 và Prot. 787/65, x. Notitiae
1 (1965) 52-53.
[61] x. Notitiae 1 (1965) 52-53.
[62] Về Ordo paenitentiae, chúng ta mới thấy có bản dịch hai
công thức tha tội cho từng cá nhân và tha tội tập thể như chúng ta thấy trên
đây. Toàn bộ cuốn Ordo paenitentiae chưa được dịch ra tiếng Việt.
[63] Sắc lệnh số Prot. 2444/93/L.
[64] Sắc lệnh số Prot. CD 269/88, ngày 07-04-1988. Bản văn tiếng
Latinh Thánh lễ này đã được đưa vào trong Sách Lễ Rôma tiếng Latinh.
[65] Sắc lệnh số Prot. 399/00/L.
[66] GM. GIUSE PHẠM VĂN THIÊN, «Thông cáo số 06/74 của Ủy ban Giám
mục về Phụng vụ», trong Phụng Vụ 24 (1974) 7.