Về vấn đề thích nghi phụng vụ có tính
cách sâu rộng hơn, thì Hội đồng Giám mục Việt
Trong một bản báo cáo cho Bộ Phụng tự về
sinh hoạt phụng vụ sau buổi họp của Hội đồng Giám mục Việt Nam từ ngày
05-12/01/1972, có đoạn viết về Một số cử chỉ phụng vụ như sau:
“Giáo Hội không loại bỏ những gì là
chân thật trong các tôn giáo địa phương, cả trong phạm vi phụng vụ. Theo nguyên
tắc này và nhân danh HĐGMVN, Ủy ban Giám mục về Phụng vụ, trong thông cáo số
02/71, đề ngày 11-01-1971 [67], đã cho thực hiện một cuộc trưng cầu dân
ý để biết rộng rãi hết sức có thể ý kiến của các linh mục và giáo dân về việc
thay thế các cử điệu hiện thời trong phụng vụ bằng những cử điệu khác, mà theo
ý kiến và trong thực tế, có thể được coi là phù hợp hơn với các tập tục và thói
quen Việt Nam, như cử điệu bái gối được thay thế bằng cử điệu cúi mình sâu, bỏ
hôn bàn thờ và Sách lễ, và thế lại bằng cách xá, thay thế giang tay bằng cử
điệu chắp tay, ... Trong toàn thể, thì phần đông các câu trả lời (4500 câu trả
lời tất cả) không đồng ý việc thay đổi nhanh chóng… Theo một số các thành viên
khác, còn phải suy nghĩ thêm nữa, trong lúc các tôn giáo địa phương khác đang
bắt chước các cử điệu của chúng ta và trong khi đà tiến hóa của xứ sở đi về
việc hiện đại hóa được thực hiện nhanh hơn là chúng ta ngờ được. Đàng khác, một
cuộc tổng hợp giữa Tây và Đông còn là một điều đáng mong chờ tại Việt Nam; hơn
nữa, có chắc là các cử chỉ ngày nay được coi là thích hợp với phong tục và thói
quen Việt Nam có thể diễn tả thích hợp đức tin Kitô giáo của chúng ta cách đặc
biệt không? Sau cuộc thảo luận, Đại Hội đã quyết định không thay đổi gì trong
lúc này về những cử điệu đang dùng và tiếp tục theo đuổi cuộc nghiên cứu tìm
tòi phát khởi từ nhiều năm nay, với lưu ý một đàng về ý nghĩa sâu xa của các
nghi thức phụng vụ của chúng ta, và đàng khác về ý nghĩa và giá trị tôn giáo
của các cử chỉ và tập tục của xứ sở”. [68]
Ngày 19-10-1992, trong Thư mục vụ, Hội
đồng Giám mục đã viết về vấn đề Hội nhập văn hóa trong phạm vi phụng vụ, trong
mục số 9, với tựa đề Xây dựng một nếp sống và một lối diễn tả đức tin có bản
sắc dân tộc hơn:
“Ngay từ đầu, cha ông chúng ta đã
biết vận dụng những cái hay trong kho tàng văn hóa dân tộc để diễn tả đức tin,
diễn tả tương quan của mình với Thiên Chúa: từ âm nhạc, kiến trúc, lễ nghi đến
cách tổ chức gia đình, làng xóm xứ đạo. Ngày nay, giao lưu giữa các dân tộc
đang làm cho các nền văn hóa ngày càng xích gần nhau và dễ dàng tiếp nhận nhau.
Đi tìm sắc thái văn hóa dân tộc không có
nghĩa đơn thuần lấy lại những cái cổ xưa, nhưng làm sao cho tính cách dân tộc
được diễn tả trong lời kinh tiếng hát, trong cử hành phụng vụ, trong cuộc sống
hằng ngày cũng như trong suy tư và ngôn ngữ thần học. Công việc này cũng phải
được thực hiện trong các dân tộc ít người nữa, sao cho các dân tộc đều giữa
được bản sắc của mình trong Hội Thánh.
Đây là một việc lớn, cần sự đóng góp của
nhiều lãnh vực chuyên môn và phải theo sự chỉ đạo chung để tránh những tùy tiện”.
Trong những năm gần đây đã có những cuộc
tọa đàm về vấn đề thờ kính tổ tiên; cuộc tọa đàm về một số vấn đề văn hóa công
giáo Việt
Ngoài ra Hội đồng Giám mục cũng cần xác
định một số điểm mà Giáo luật đã dành cho các Hội đồng Giám mục xác định rõ hơn
cho vùng của mình, như khoản luật 851 & 2 về định chế liên hệ đến việc cử
hành bí tích rửa tội; khoản 891 về tuổi lãnh nhận bí tích thêm sức…
Vào thời kỳ sau Công đồng Vaticanô II,
tại Việt Nam đã có những thí nghiệm để thích nghi các buổi cử hành Thánh lễ
theo sắc thái Việt Nam, như ở dòng Biển Đức Thiên An ở Huế, hoặc tại Trung Tâm
Đắc Lộ Sài Gòn, buổi cử hành Thánh lễ theo sắc thái dân tộc tại nhà thờ Tân Chí
Linh Sài Gòn vào ngày 08-09-1974 [69]. Buổi cử hành thí nghiệm này đã gây nhiều
hào hứng, cũng như các phản ứng thuận lợi, không thuận lợi thời đó [70].
– Năm 1969, Tòa Thánh đã chuẩn y một số
cử hành riêng như sau:
Lễ trọng kính thánh Phanxicô Xaviê, Quan
thầy các xứ truyền giáo được mừng vào ngày Chúa nhật liền trước lễ Chúa Kitô là
Vua vũ trụ, vì Chúa nhật thứ nhất trong tháng 12 luôn là Mùa Vọng.
Đồng thời cũng cho phép Lễ trọng Đức Mẹ
Vô Nhiễm được cử hành vào Chúa nhật thứ II Mùa Vọng, vì ngày 8 tháng 12 luôn là
ngày làm việc [71].
– Ngày 03-06-1988, cho phép đưa lễ thánh
Anrê Dũng Lạc, linh mục và các bạn tử đạo, vào lịch riêng Việt Nam và được mừng
với bậc lễ nhớ bắt buộc [72].
– Năm 1990, theo đơn xin của Hội đồng
Giám mục Việt Nam, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã cho phép đem vào lịch chung
của Giáo Hội lễ thánh Anrê Dũng Lạc, linh mục, và các bạn tử đạo, mừng vào ngày
24 tháng 11, với bậc lễ nhớ [73].
Về lịch phụng vụ riêng cho Việt Nam,
được Tòa Thánh chuẩn y, thì chưa có, tuy nhiên đã có những quyết định của Hội
đồng Giám mục Việt Nam, năm 1992, về việc cử hành một số lễ như sau:
01-10: Thánh Têrêsa Hài
Đồng Giêsu, trinh nữ và tiến sĩ Hội thánh, lễ kính
07-10: Lễ Đức Mẹ Mân
Côi, Lễ kính
24-11: Thánh Anrê Dũng
Lạc, và các bạn tử đạo, Lễ kính
03-12: Thánh Phanxicô
Xaviê, linh mục, Lễ kính
Các ngày cầu mùa (De rogationibus)
được chỉ định như sau:
Ngày cầu cho Tổ quốc.
Mồng một Tết Nguyên
Đán: cầu bình an cho Năm Mới.
Mồng hai Tết Nguyên
Đán: cầu cho Tổ Tiên.
Mồng ba Tết Nguyên Đán:
cầu cho công việc làm ăn.
Tết Thiếu nhi.
Các ngày sám hối: thứ
sáu trong năm và mùa chay (Giáo luật 1250).
Thứ tư Lễ Tro: Vì theo chu kỳ hai hoặc
ba năm thứ tư Lễ Tro thường trùng với các ngày Tết nguyên đán tại Việt Nam, nên
Hội đồng Giám mục Việt Nam đã xin Toà Thánh để có thể dịch nghi lễ làm phép Tro
và xức Tro, cũng như ngày ăn chay vào thứ sáu, hoặc thứ bảy sau Lễ Tro. Ngày
26-11-1998, Bộ Phụng tự đã đồng ý cho Hội đồng Giám mục Việt Nam được cử hành
lễ làm phép và xức Tro vào thứ sáu, hoặc thứ bảy sau Lễ tro, cũng như việc ăn
chay kiêng thịt vào hai ngày trên [74].
Lịch riêng của Giáo phận Vinh và đây là
Giáo phận duy nhất tại Việt Nam đã có lịch riêng cho giáo phận được Toà Thánh
chuẩn y. Ngày 01-08-1980 [75], Toà Thánh chuẩn y lịch riêng cho Giáo phận Vinh,
gồm các lễ sau đây:
18-2: Thánh Phêrô
Khanh, linh mục tử đạo, lễ nhớ,
3-3: Cung hiến nhà thờ
chánh toà Vinh, tại nhà thờ chánh toà, lễ trọng; tại các nhà thờ khác trong
Giáo phận, lễ kính;
15-8: Đức Mẹ hồn và xác
lên trời, Quan thầy Giáo phận, lễ trọng;
24-11: Thánh Phêrô
Borie, giám mục tử đạo, Thánh Vinh Sơn Điểm và Phêrô Khoa, linh mục tử đạo, lễ
nhớ.
Như các yếu tố vừa được ghi lại trên
đây, vấn đề lịch chung cho toàn thể Giáo Hội tại Việt
Ngày 14-12-1990, theo đơn xin của Hội
đồng Giám mục Việt Nam, Toà Thánh đã chấp nhận việc chọn thánh Anrê Dũng Lạc,
linh mục, và các Bạn tử đạo, làm quan thầy toàn thể Giáo Hội tại Việt Nam [76].
Ngày 11-8-1994, theo đơn xin của Hội
đồng Giám mục Việt Nam, Toà Thánh đã cho phép được cho rước lễ trên tay [77].
Theo đơn xin của Cáo thỉnh viên vụ Phong
thánh cho các Chân phước Tử đạo Việt Nam, Toà Thánh đã cho phép Giáo Hội tại
Việt Nam và các cộng đồng công giáo Việt Nam hải ngoại được mừng kính các thánh
mới trong vòng một năm kể từ ngày phong thánh [78].
Theo đơn xin của Cáo thỉnh viên vụ Phong
Chân Phước cho vị Tôi tớ Chúa Anrê Phú Yên, tử đạo, Toà thánh đã cho phép Giáo
phận Đà Nẵng, các cộng đoàn công giáo Việt Nam trong nước và hải ngoại được
mừng kính Chân phước mới trong vòng một năm kể từ ngày phong Chân Phước [79].
Việc huấn luyện phụng vụ là điểm Hiến
chế về Phụng vụ nói tới và nhấn mạnh nhiều (x. PV,15-19). Tại Việt
Báo chuyên về phụng vụ không có. Báo Phụng
Vụ phát hành số 1, tháng 12 năm 1970, xuất bản 2 tháng một lần. Cho tới
tháng 10 năm 1971, đã cho xuất bản được 6 số và con số độc giả là 3000. Từ năm
1975 báo này không còn xuất bản nữa. Báo Linh mục Nguyệt san (Sacerdos),
báo Nhà Chúa cũng không còn.
–––––––––––––––––––––––––––
[67] GM. GIUSE PHẠM VĂN THIÊN, «Thông cáo số 02/71 của Ủy ban Giám
mục về Phụng vụ», trong Phụng Vụ 2 (1971), 30-32. Những vấn đề này đã
được đưa ra thảo luận trong phiên họp Ủy ban Phụng vụ và Truyền thông Xã hội
cấp toàn quốc ngày 5-4-1971, tại Trung tâm Công giáo Việt Nam: x. Phụng Vụ
3 (1971) 38-42.
[68] X. Notitiae 9 (1973) 73.
[69] GM. PHAOLÔ NGUYỄN VĂN BÌNH, «Ban phép cho thí nghiệm một lần
Thánh lễ và Thánh ca độc đáo Việt
[70] NGƯỜI DỰ LỄ, «Nhận định về cuộc trình diễn Thánh lễ và Thánh
ca độc đáo Việt
[71] Sắc lệnh số Prot. 1353/69, ngày 16-10-1069, x. Notitiae
6 (1970) 61.
[72] Sắc lệnh số Prot. CD 630/88, x. Notitiae 24 (1988) 475.
[73] X. Notitiae 25 (1989).
[74] Sắc lệnh số Prot. 2407/98L, x. Notitiae 35 (2000) 32.
[75] Sắc lệnh số Prot. CD 1421/80.
[76] Sắc lệnh số Prot. CD 878/90, x. Notitiae 26 (1990) 710.
[77] Sắc lệnh số Prot. CD 1574/94/L, x. Notitiae 30 (1994)
543.
[78] Sắc lệnh số Prot. CD 215/88, 27-01-1988, x. Notitiae 24
(1988) 209.
[79] Sắc lệnh số Prot. CD 251/88, 27-01-1988, x. Notitiae 24
(1988) 209.
[80] X. Báo cáo gởi Tòa Thánh, năm 1965, x. Notitiae 1
(1965) 299-300.
[81] X. Notitiae 9 (1972) 73.
[82] X. Notitiae 3 (1965) 299-300 và Notitiae 4
(1966) 265-266.
UB Phụng tự / HĐGMVN