Tìm hiểu sứ mạng và nhiệm vụ của Vị
đại diện Tòa Thánh
Ngày 13.01.2011, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã
bổ nhiệm Đức Tổng Giám mục Leopoldo Girelli, hiệu tòa Capri, làm Đại diện Tòa
Thánh không thường trú tại Việt
WHĐ đăng lại bài viết này trong tập san Hiệp
Thông nói trên (trang 202–213).
Trước tiên chúng ta hãy tìm hiểu về từ ngữ "Tòa
Thánh". Điều 361 của Bộ Giáo luật nói rằng Tòa Thánh chỉ về Giáo hoàng
Rôma cũng như Phủ Quốc vụ khanh và những bộ, ban ngành của Curia Rôma. Điều mà
cộng đồng quốc tế quan tâm chính là trung tâm của mối hiệp thông phổ quát, đặc
biệt của Hội Thánh công giáo, được tổ chức chung quanh Đấng kế vị thánh Phêrô.
Luật quốc tế và cộng đồng quốc tế đã thiết lập những quan hệ với tổ chức công
giáo này kể từ thời Trung cổ và vẫn tồn tại đến ngày nay, không hề đứt đoạn.
Điều mà quốc tế nhìn nhận là Giáo hoàng Rôma. Quốc gia
Tòa Thánh hiện diện trên trường quốc tế bằng ba
cách: (1) qua những hoạt động của Đức Giáo hoàng: bản thân ngài, quyền giáo
huấn, những chuyến thăm mục vụ; (2) qua Phủ Quốc vụ khanh; (3) qua các vị đại
diện Tòa Thánh.
Tôi muốn nói với anh em về điểm thứ ba này vì
tôi được mời trình bày cho mọi người biết các đại diện Tòa Thánh là ai và họ
làm gì. Nói về các vị đại diện của Đức Giáo hoàng thì trước hết là nói về Hội
Thánh. Phải luôn luôn ghi nhớ bản chất hiệp thông của Hội Thánh: sự hiệp thông
mang tính phẩm trật đặt nền trên Tông đồ đoàn với thánh Phêrô là đầu. Việc đại
diện cho Đức Giáo hoàng trong những công việc ad extra trước hết phải được đặt
trong bối cảnh Hội Thánh: cử hành những Công đồng đại kết, ở đó một vị đặc sứ
được cử đến thay mặt cho Đức Giáo hoàng. Những đại sứ đầu tiên của Đức Giáo
hoàng là các giám mục, trong những cử hành mang tính Giáo Hội, đại diện cho Đức
Giáo hoàng xét như là Vị Đại diện Chúa Kitô, chứ không phải trong tư cách một
vị vua trần thế.
Không gì sai lầm hơn khi nói rằng nếu Đức Giáo
hoàng có các đại sứ, thì đó là do ngài là ông vua trần thế hoặc Chủ tịch một
nước hoặc Hội Thánh là một công ty đa quốc gia... Tìm lại lịch sử sẽ thấy điều
chính yếu là Đức Thánh Cha. Có thể thấy rõ điều này qua những biến cố gần đây.
Từ năm 1870 đến 1929, Tòa Thánh mất chủ quyền về mặt trần thế, Đức Giáo hoàng
bị giam giữ tại Vatican, là tù nhân của nước Ý. Dù vậy, ngài vẫn tiếp tục gửi
các sứ thần và vẫn đón tiếp các đại sứ. Điều đó chứng tỏ không phải khía cạnh
trần thế làm cho Đức Giáo hoàng có quyền hoạt động trên trường quốc tế.
Kết luận đã rõ: việc đại diện cho Đức Giáo hoàng
là việc phục vụ sự hiệp thông trong Hội Thánh và thiện ích chung của xã hội nhờ
những quan hệ mang tính cơ chế với các chính quyền dân sự. Sự phục vụ này được
thực hiện nhờ phương thế là luật ngoại giao.
Nhiệm vụ của vị đại diện Tòa Thánh
Chúng ta chỉ xem xét ở đây vấn đề chúng ta quan
tâm: hoạt động của các vị đại diện Tòa Thánh trong một đất nước. Sẽ không nói
đến hoạt động nhiều mặt của các đại diện Tòa Thánh bên cạnh những tổ chức quốc
tế.
Vị trí của vị đại diện Tòa Thánh là một trách
nhiệm mang tính Giáo Hội: được thiết lập cách cố định (stabiliter constitutum)
và hoạt động nhằm mục đích thiêng liêng (in
finem spiritualem - GL điều 145 §1). Tính cố định phát xuất từ chỗ trách
nhiệm này gắn kết với nhiệm vụ của Đức Giáo hoàng trong Hội Thánh. Ngoài ra
trong bộ Giáo luật, những điều khoản bàn về các vị đại diện Đức Giáo hoàng nằm
trong phần nói về cơ cấu phẩm trật của Hội Thánh, và đặc biệt hơn nữa, trong
đoạn nói về việc thực thi quyền bính. Vì lý do này, trách nhiệm của vị đại diện
Tòa Thánh không chấm dứt khi Đức Giáo hoàng qua đời.
Những nhiệm vụ của vị đại diện Tòa Thánh được mô
tả trong Tự sắc Sollicitudo Omnium
Ecclesiarum (Phaolô VI, 24-6-1969) và trong Giáo luật, điều 361-369.
Nhiệm vụ chính của vị đại diện Tòa Thánh là giúp
cho mối giây hiệp nhất giữa Tòa Thánh và các Hội Thánh địa phương được vững
vàng và hiệu quả hơn. Ngoài ra, vị đại diện còn bày tỏ mối quan tâm của Đức
Giáo hoàng đối với thiện ích của xứ sở nơi ngài đang thi hành sứ vụ. Cách
riêng, chính ngài phải nhiệt tình quan tâm đến vấn đề hòa bình, phát triển và
sự hợp tác giữa các dân tộc nhằm phục vụ lợi ích thiêng liêng, đạo đức và vật chất
của gia đình nhân loại (Sollicitudo
Omnium Ecclesiarum, số 4).
Vị đại diện Tòa Thánh ưu tiên lo lắng cho nhiệm
vụ Giáo Hội hơn là nhiệm vụ chính trị (in finem spiritualem). Bổn phận chính và
đặc thù của ngài là củng cố mối giây hiệp nhất trong Hội Thánh. Rồi để hợp tác
nhằm phục vụ lợi ích của dân tộc mà ngài được sai đến làm việc, ngài phải là
kênh truyền thông qua đó Đức Giáo hoàng cho biết những quyết định của ngài liên
quan đến Hội Thánh địa phương, bao gồm việc bổ nhiệm giám mục và những tài liệu
hữu ích. Vị đại diện sẽ duy trì những mối liên hệ giữa Hội Thánh và Nhà nước.
Ngài sẽ nhắc nhở những nguyên tắc căn bản nhằm thúc đẩy đời sống thế giới nhân
đạo hơn: sự hợp tác giữa các dân tộc, những quyền con người và quyền của các
dân. Tóm lại, nền ngoại giao của Tòa Thánh phải là nắm men trong xã hội loài
người.
Tương quan giữa vị đại diện Tòa Thánh và các
giám mục trong Hội Thánh địa phương
Rõ ràng đây là lãnh vực ưu tiên trong hoạt động
của vị đại diện Tòa Thánh. Tự sắc của Đức Phaolô VI nêu rõ những điểm sau đây:
cộng tác và thông tin giữa Tòa Thánh với Hội Thánh địa phương và ngược lại; trợ
giúp hoạt động mục vụ của các giám mục; khi cần thiết, hỗ trợ các giám mục
trong mối quan hệ với chính quyền dân sự; củng cố tương quan với Hội đồng Giám
mục, chuẩn bị việc bổ nhiệm giám mục; hỗ trợ các Bề trên dòng; cộng tác với các
giám mục trong việc thúc đẩy những quan hệ đại kết.
Vị đại diện Tòa Thánh phải đóng vai trò trợ
giúp, nâng đỡ mối giây liên lạc giữa các Hội Thánh địa phương ở vòng ngoài với
Rôma là trung tâm của Hội Thánh, nhưng không bao giờ hành động như thay thế các
giám mục địa phương và cũng không ngăn cản thẩm quyền của các ngài. Dĩ nhiên,
vì là đại diện của Đức Giáo hoàng và thực thi quyền bính đã được trao cho ngài,
nên vị đại diện có quyền về mặt thiêng liêng đối với các tín hữu trong xứ sở mà
ngài làm việc... Dù vậy, không có nhiệm vụ nào của vị đại diện liên hệ trực
tiếp đến đời sống nội bộ của Hội Thánh địa phương, nghĩa là vị đại diện không
có thường quyền trên các tín hữu; ngài không thể ra luật, không ban phát ân huệ
hay hình phạt nào, cũng không đưa ra một phán quyết nào về luật.
Điều được quan tâm đặc biệt là mối tương quan
của vị đại diện Tòa Thánh với Hội đồng Giám mục địa phương. Vị đại diện Tòa
Thánh phải quan tâm đến ý kiến của Hội đồng Giám mục trong việc bổ nhiệm giám
mục và những thay đổi trong đời sống Hội Thánh. Ngài phải trao đổi với Hội đồng
Giám mục khi thương thảo về những hiệp ước và thỏa ước. Vị đại diện Tòa Thánh
không phải là thành viên của Hội đồng Giám mục, nhưng thông thường ngài sẽ tham
dự buổi họp khai mạc của Hội nghị giám mục, để là mối liên kết giữa Đức Giáo
hoàng với Hội đồng Giám mục, cũng để cho thấy những quyết định của Hội đồng
Giám mục luôn phản ánh sự hiệp thông của Hội Thánh địa phương với Hội Thánh phổ
quát. Điều quan trọng là vị đại diện phải được thông báo về những vấn đề mà hội
nghị bàn thảo; ngài sẽ được thông báo về chương trình nghị sự cũng như những
thông tin hữu ích cho việc hiểu biết về Hội Thánh địa phương.
Quan hệ của vị đại diện Tòa Thánh với chính
quyền dân sự
Mối quan hệ với chính quyền dân sự hàm chứa sự
tôn trọng đối với quyền bính đã được thiết lập cách hợp pháp. Điều đó không có
nghĩa là vị đại diện không thể trực tiếp đối thoại với dân chúng. Trong mối
quan hệ này, nhiệm vụ đầu tiên của vị đại diện là thông báo và giải thích cho
chính quyền biết về lập trường của Tòa Thánh cũng như của Hội Thánh địa phương
về những vấn đề lớn của xã hội. Đồng thời, bày tỏ mối quan tâm của Hội Thánh về
tất cả những gì liên quan đến hòa bình, phát triển và hợp tác giữa các dân tộc,
nhưng không đề nghị những giải pháp cụ thể (kỹ thuật). Vị đại diện phải thường
xuyên quan tâm đến sự tự do của Hội Thánh và bảo vệ sự tự do đó khi cần thiết.
Tính đặc thù trong sứ mạng của Hội Thánh giữa
cộng đồng nhân loại
Tòa Thánh không phải là một lực lượng chính trị
nhưng Tòa Thánh đại diện cho sức mạnh tinh thần không thể không được nhìn nhận
trong bối cảnh quốc tế. Trong bối cảnh đó, Đức Giáo hoàng và những người cộng
tác của ngài ý thức về nhiệm vụ của mình, và hằng ngày vẫn gióng lên tiếng nói
của Tin Mừng liên quan đến các vấn đề trên thế giới.
Trong lãnh vực này, những mối ưu tiên của Tòa
Thánh là: bảo vệ quyền của Hội Thánh và các tín hữu; bảo đảm những điều kiện ít
ra là tối thiểu cho việc phát triển đời sống kitô hữu, không chỉ để tồn tại
nhưng còn là để sống và tăng trưởng. Do đó, Tòa Thánh luôn bảo vệ tự do và
quyền tự do tôn giáo trong những hội nghị quốc tế cũng như tại Liên hiệp quốc.
Tòa Thánh luôn nỗ lực thúc đẩy hòa bình với hai
xác tín này: hòa bình được xây dựng trên sự hợp nhất nhân loại; hòa bình không
chỉ là giải trừ vũ khí nhưng là sự tin tưởng và tín nhiệm giữa con người với
nhau, nhìn nhau như anh em.
Nền đạo đức trong những mối quan hệ quốc tế phải
được xây dựng trên bốn nguyên tắc:
– Chân lý: bản chất đích thực của con người, mục
đích của hành động và những nỗ lực của con người không thể bị hi sinh cho những
lợi ích chính trị hoặc trở thành những đối tượng thỏa hiệp.
– Tự do: Nhà nước hiện hữu là để kiến tạo và bảo
đảm những điều kiện cho mỗi công dân thể hiện bản thân trong những khát vọng cá
nhân và tập thể của họ.
– Công lý: hướng đến một thế giới nhân đạo hơn,
trong đó mỗi người đều được mời gọi hiến tặng và trao ban.
– Liên đới: thúc đẩy những quốc gia giàu có hơn
về vật chất cũng như tinh thần giúp đỡ những dân tộc kém may mắn hơn. Nhưng
không thể xem những nước nghèo như những khách hàng hoặc những con nợ.
Trong bối cảnh thế giới ngày nay, một trong
những nỗ lực lớn nhất của ngành ngoại giao Tòa Thánh là giúp đỡ cộng đồng quốc
tế phát huy một tầm nhìn mới về trật tự thế giới, vừa quan tâm đến những trở
ngại cho nền hòa bình thế giới vừa cố gắng vượt qua những trở ngại đó bằng đối
thoại cũng như bằng sự lắng nghe những người không có tiếng nói để lên tiếng
thay cho họ. Ngày nay nếu Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến đối thoại, chính là vì
chỉ có đối thoại mới có thể loại trừ những nghi ngờ, chia rẽ và đối đầu. Trong
tầm nhìn mới này về trật tự thế giới, điều quan trọng tiên quyết là phải giữ sự
tín nhiệm vốn là đòi hỏi cần thiết cho việc sống chung hòa bình của gia đình
nhân loại. Trong thời đại chúng ta, việc đối thoại có lợi thế nhờ sự phát triển
của nền văn minh hiện đại. Các phương tiện truyền thông phát triển rất nhanh. Ý
thức về sự hiệp nhất và vận mệnh chung của gia đình nhân loại cũng gia tăng. Thế
nhưng sự tiến triển kỹ thuật truyền thông không phải đương nhiên là sự tiến bộ
đem lại lợi ích cho con người, nếu sự hiểu biết lẫn nhau không gia tăng. Qua
công tác ngoại giao, Tòa Thánh mong muốn có phương tiện chia sẻ những kinh
nghiệm thiêng liêng quý báu và những khát vọng của các dân tộc, hiểu biết những
giá trị làm nền cho những khát vọng đó, giúp tránh những xung đột do sự vô cảm
và thiếu hiểu biết gây ra.
Hàng giáo sĩ và chính trị
Những nguyên tắc tổng quát là: sự tự lập của
những thực tại trần thế, Hội Thánh và Nhà nước tách biệt nhau. Điều đó không có
nghĩa là không thể có sự hợp tác giữa hai bên. Cũng một đức tin Kitô giáo có
thể dẫn đến những dấn thân khác nhau (Octagesima
Adveniens, số 50). Điều quan trọng là người kitô hữu giáo dân không nên
vắng mặt trong những bàn thảo chính trị, ở đó họ có hai nhiệm vụ: khơi dậy và
canh tân, để xã hội được đổi mới khởi đi từ những nguyên tắc đạo đức.
Chúa Kitô phân biệt thành đô trần thế với Vương
quốc Thiên Chúa. Làm như thế, ngài cứu độ cả trần thế lẫn con người. Cứu độ
trần thế vì giúp trần thế nhận ra giá trị và sự tự lập của nó. Cứu độ con người
vì khi khẳng định đặc tính siêu việt của nhân vị, ngài giải thoát con người
khỏi ách độc tài toàn trị của trần thế.
Tính cách đặc thù của Hội Thánh là ở chỗ Hội
Thánh không thể bị đồng hóa với bất cứ một nền văn hóa hay một hệ thống chính
trị nào. Hội Thánh có nhiệm vụ phê phán: vì Tin Mừng, Hội Thánh phải nói rằng
Nhà nước không phải là tất cả của hiện hữu nhân sinh, và Nhà nước không đáp ứng
được tất cả những khát vọng của con người. Từ khởi nguyên của Kitô giáo cho đến
ngày nay, mỗi khi Nhà nước muốn làm suy giảm quyền bính của Hội Thánh hoặc
những quyền của Hội Thánh, người kitô hữu luôn tìm cách chống lại, nhân danh
lương tâm: đức tin Kitô giáo phá hủy huyền thoại Nhà nước tự coi mình như
Thượng đế (đế quốc Rôma, chủ nghĩa quốc xã, cộng sản), để thay vào đó là sự
thiện hảo mà theo kế hoạch của Thiên Chúa, chỉ đạt được khi tôn trọng những
quyền Thiên Chúa đã ban cho con người.
Các linh mục có quyền có những chọn lựa riêng,
miễn là phù hợp với Tin Mừng. Tuy nhiên, vì những chọn lựa chính trị ở tự bản
chất là bất tất và không bao giờ diễn đạt được Tin Mừng cách xứng hợp và bền
vững, cho nên linh mục phải nhớ rằng mình là người phục vụ sự hiệp thông trong
cộng đoàn mà mình có trách nhiệm: "phải giúp cho những não trạng khác nhau
gặp gỡ nhau, để không ai cảm thấy mình là xa lạ trong cộng đoàn kitô hữu"
(Presbyterorum Ordinis, số 9). Dấn
thân vào một đảng phái chính trị sẽ tạo ra sự đối kháng với một thành phần tín
hữu, như thế sẽ gây cản trở cho mối tương quan giữa mục tử và giáo dân, kể cả
khi cử hành Thánh Thể. Đang khi đó, khi linh mục chủ sự cử hành Thánh Thể là
chủ sự việc cử hành sự hiệp nhất. Linh mục là chứng nhân của những thực tại
tương lai, do đó phải giữ một khoảng cách nào đó với những chức vụ và dấn thân
chính trị (Synode 1971). Linh mục có
sứ mạng hiện tại hóa hy tế và tình yêu của Chúa Kitô cho thế giới và trong thế
giới. Do đó linh mục có bổn phận đưa Tin Mừng nhập thể vào những hoàn cảnh sống
cụ thể khi loan báo những nguyên tắc đạo đức, lắng nghe tiếng nói của những
người bị áp bức, gặp gỡ những nhà chính trị thuộc mọi đảng phái và mọi công dân
dấn thân vào chính trị.
Do đó, chúng ta có thể hiểu được triết lý hàm ẩn
trong những khoản giáo luật 285 và 287:
– Điều 285 §3: Cấm các giáo sĩ đảm nhận công vụ
nào có sự tham gia vào việc thi hành quyền bính dân sự.
– Điều 287 §2: Giáo sĩ đừng chủ động tham gia
vào những đảng phái chính trị và vào việc điều khiển các công đoàn, trừ khi
theo phán đoán của thẩm quyền Hội Thánh, điều đó cần thiết để bênh vực những
quyền lợi của Hội Thánh hoặc để thăng tiến lợi ích chung.
Giám mục có trách nhiệm xét xem sự vi phạm nhân
quyền hoặc sự thúc đẩy thiện ích chung có đòi hỏi linh mục dấn thân cụ thể
không (Giáo Luật điều 287). Vì đây là vấn đề rất đặc biệt, cho nên như Thượng
Hội đồng giám mục năm 1971 gợi ý, cần phải tham khảo ý kiến của Hội đồng linh
mục, kể cả của Hội đồng Giám mục.
Trong mọi trường hợp, tôi cho rằng phải có một
vài điều kiện sau: khi những lực lượng phản dân chủ tạo thành sự đe dọa nghiêm
trọng đối với sự tự do cần thiết cho việc thực thi quyền con người; khi có nguy
cơ ngăn cản việc rao giảng Tin Mừng; khi người giáo dân không thể hoặc không
thích hợp cho việc hoạt động trong những hoàn cảnh trên. Dù thế nào chăng nữa,
đây chỉ có thể là sự dấn thân có mức độ giới hạn xét về cả mục tiêu lẫn thời
gian. Tất cả những điều này đã được giải thích trong lá thư của Đức Hồng y
Sodano gửi cho các sứ thần Tòa Thánh tại châu Phi vào tháng 5, 1991.
Phủ Quốc vụ khanh yêu cầu các vị đại diện Tòa
Thánh nhắc nhở các giám mục rằng: các kitô hữu giáo dân có bổn phận bày tỏ sự
hiện diện của Hội Thánh trong đời sống chính trị khi họ áp dụng những nguyên
tắc Kitô giáo. Ngược lại, các linh mục dĩ nhiên, các giám mục lại càng cần hơn
nữa phải tránh không tham gia vào những quốc hội. Sự hiện diện của các linh mục
trong những tổ chức như thế chỉ có thể được cứu xét trong những trường hợp rất
đặc biệt, đương nhiên chỉ trong thời gian ngắn, và không bao giờ được đóng vai
trò chủ tịch. Bản chất đặc biệt của những trường hợp này sẽ được Hội đồng Giám
mục lượng giá và phải trình cho Tòa Thánh.
Các giám mục phải công khai bày tỏ lập trường
nếu được, tất cả cùng lên tiếng trong một tài liệu của Hội đồng Giám mục nhằm
soi sáng lương tâm, nhắc nhớ đức tin và giáo huấn xã hội của Hội Thánh, nhất là
khi những quyền căn bản của con người và phần rỗi các linh hồn bị đe dọa. Các
ngài phải luôn luôn khích lệ người kitô hữu giáo dân trau dồi bản thân và hiện
diện như những chứng nhân trong đời sống công cộng.
Rõ ràng sứ vụ đặc thù của hàng giáo phẩm không
phải là tham gia vào những tranh cãi trần thế. Ngược lại, điều quan trọng là
phải phục vụ mọi người để thúc đẩy sự hòa giải và hòa bình. Để đạt mục đích
này, Hội Thánh không thể gắn mình vào một nhóm hay một đảng phái. Lại càng
không nên có mặt trong hàng ngũ chống đối chính trị; nếu không, chính Hội Thánh
địa phương sẽ mất đi khả năng làm trung gian trong những khủng hoảng nghiêm
trọng hơn.
Hồng y Jean-Louis Tauran
Thiên Triệu chuyển dịch
Nguồn: WHĐ