Bài 8:
NỀN TẢNG
TRUYỀN GIÁO TRONG TÂN ƯỚC
Chứng Tá và Truyền
Giáo – Các Sách Khác Của Tân
Ước
***
Trong bài này, chúng ta
sẽ tìm hiểu quan niệm của Hội Thánh sơ thời về trách nhiệm của mình đối với thế
giới, trách nhiệm chứng tá và truyền giáo, qua:
1. Các Thư của thánh Phê-rô
2. Sách Khải huyền
3. Các Thư Mục Vụ (1 & 2 Ti-mô-thê và
Ti-tô)
4. Thư Do-thái
5. Thư Giu-đa
6. Thư Gia-cô-bê
***
1. Thư 1
Phê-rô: Làm chứng Niềm Hy Vọng
Thư 1 Phê-rô là một
trong các sách Tân Ước phong phú giáo lý nhất. Thần học phép rửa và lời kêu gọi
làm chứng niềm hy vọng Ki-tô giáo khiến thư này có một cống hiến quan trọng cho
vấn đề truyền giáo.
Không thể biết đích xác
về thời gian, địa điểm cũng như tác giả của thư. Rất có thể thư được gửi đi từ
Rô-ma, tác giả gọi là “Ba-by-lon”, một tên châm biếm thường gặp trong văn học
Do-thái và trong sách Khải Huyền để chỉ kinh thành đế quốc Rô-ma (x. Kh 14, 8; 17, 5; 18, 2); thời gian có lẽ là
sau cuộc tử đạo của hai thánh Phê-rô và Phao-lô, tức là vào những năm 70; còn
tác giả thì rất có thể là “một nhóm Phê-rô” đã được thành lập tại Rô-ma vào
những năm 60, mặc dầu có lời giới thiệu về người gửi thư là “Phê-rô, tông đồ của Đức Giê-su Ki-tô” (1Pr 1, 1).
Một trong những nét gây
ấn tượng của thư này là ý thức truyền giáo của nó không bắt nguồn từ kiểu suy
tư đặc trưng của các sách khác của Tân Ước. Ví dụ, vấn đề Do Thái-Dân Ngoại
hoàn toàn không được đề cập đến, và viễn tượng lịch sử cứu độ chỉ được trình
bày ở mức tối thiểu. Thay vào đó, thư 1 Phê-rô trực tiếp liên kết trách nhiệm Ki-tô hữu đối với thế giới
với một thần học phép rửa và ơn gọi Ki-tô hữu.
Thư nhấn mạnh ngay từ
đầu rằng người Ki-tô hữu được Thiên Chúa chọn
và hiến thánh để có một đời sống vâng
phục và thánh thiện (x. 1Pr 1, 1-2). Ơn gọi cứu độ này đến nhờ quyền năng từ cái chết và sự
sống lại của Đức Ki-tô (x. 1Pr 1 1, 2). Người Ki-tô hữu gặp được giờ phút ân sủng này trong việc
rao giảng truyền giáo của Hội Thánh (x. 1Pr 1, 12), và trong nước cứu rỗi của phép rửa (x. 1Pr 3, 21). Nhờ hành vi cứu độ
của Thiên Chúa, cộng đoàn Ki-tô hữu luôn được nhắc nhở rằng họ là “dân Thiên Chúa” (x. 1Pr 2, 10), được Thiên Chúa “chọn” (x. 1Pr 1, 2) và “gìn
giữ” (x. 1Pr 1, 5). Cộng đoàn các tín hữu
là “dân thánh và vương giả” của Thiên
Chúa, được Thiên Chúa xót thương và đồng thừa hưởng giao ước của Người (x. 1Pr 1, 9-10).
Các hình ảnh này về
cộng đoàn được đặt làm nền cho việc mô tả trách nhiệm của người tín hữu. Trách
nhiệm đó là cống hiến một chứng tá sống
động về niềm hy vọng mà cuối cùng
sẽ dẫn thế gian tới chỗ làm vinh danh Thiên Chúa, chứ không phải rút lui khỏi
thế gian hay lên án nó.
Để thi hành trách nhiệm
của mình một cách có hiệu quả, thư 1 Phê-rô đưa ra hai hướng dẫn:
-
một mặt người tín hữu không được chiều theo những đam mê xác thịt,
mặc dầu sự từ chối hùa theo cuộc sống trụy lạc có thể gây ngạc nhiên, ngờ vực,
thậm chí căm thù nơi người ngoại giáo. Để chống lại áp lực hùa theo này, người
tín hữu phải sống “tiết độ” và “tỉnh thức”, và sẵn sàng kháng cự lại
một cách chủ động các cám dỗ của sự xấu (x. 1Pr 5, 8-9).
-
một mặt khác, người tín hữu phải biết “tuân phục mọi thể chế do loài người đặt ra” (x. 1Pr 2, 13), tích cực tham gia đời
sống xã hội và nêu chứng tá cho nó, bất chấp mối đe dọa từ nền văn hóa của đa
số (ngoại giáo), vì sự dấn thân tích cực này và chứng tá mà nó cống hiến cuối
cùng có thể “bịt miệng” những kẻ muốn
bêu xấu người Ki-tô hữu (x. 1Pr 2, 15).
Có hai hoàn cảnh được
nêu lên để minh họa lời dạy trên đây: các gia nhân và các bà vợ trong các gia
đình ngoại giáo.
Các lời dạy cho gia nhân được gặp trong 1 Pr 2, 18-25. Họ được khuyên “tuân phục” chủ, nghĩa là tiếp tục sống
đúng vị trí của họ trong xã hội. Chính trong vị trí này mà họ phải nêu chứng tá
cuộc sống của họ. Vì vậy họ phải thi hành việc phục vụ của họ với tất cả “lòng kính sợ” (1Pr 2, 18). Cố gắng này - để làm
một gia nhân tốt và một tín hữu tốt – có thể khiến họ phải chịu khổ. Theo thư
1Pr, không có giá trị gì khi người ta phải chịu khổ như là hình phạt vì các
hành vi xấu; nhưng khi một người chịu khổ “vì
làm việc lành”, thì sự đau khổ ấy có giá trị cứu chuộc và có thể là một
chứng tá hiệu quả (x. 1Pr 2, 12.20b). Ở điểm này, đau khổ của người gia nhân được
kết hiệp với đau khổ của Đức Giê-su (x. 1Pr 2, 21-24). Đức Ki-tô cũng đã chịu đau khổ dù Người vô
tội, và cái chết của Người có giá trị cứu chuộc.
Nhóm người thứ hai được
đề cập đến trong thư 1Pr là các người vợ của các ông chồng không tin Chúa. Vì
trong xã hội Rô-ma, theo lệ thường, người phụ nữ phải theo niềm tin tôn giáo
của chồng, nên các Ki-tô hữu làm vợ trong các cuộc hôn nhân hỗn hợp thường gặp
phải hoàn cảnh khó khăn. Đặc biệt là trong trường hợp mà người chồng có ác cảm
với Ki-tô giáo, và có vẻ đây là trường hợp được nói đến trong thư (x. 1Pr 3, 1). Trong thư, người vợ
có đạo được khuyên hãy “phục tùng”
chồng, cho dù phải sống trong một hoàn cảnh không thể chịu nổi. Hiểu nghĩa
chính xác của từ “phục tùng” ở chỗ
này là điều đặc biệt quan trọng: thư không khuyên người vợ chấp nhận phục tùng
chồng một cách thụ động, vì vấn đề chính là phải dũng cảm kháng cự lại một sự
phục tùng như vậy. Ngược lại, người vợ được khuyến khích tiếp tục chức phận làm
vợ và làm người ki-tô hữu dấn thân, cũng như các gia nhân đã được khuyên tiếp
tục ở lại - hay “tuân phục” – trong vai trò của họ. Người vợ không nên sử dụng
những lời nói chống đối trực tiếp với chồng họ, nhưng phải dùng “lời nói thinh lặng” của cách ăn nết ở
đúng mực của họ để nêu gương sáng cho chồng (x. 1Pr 3, 10. Gương của bà Xa-ra được nêu lên nhắc nhở
người phụ nữ ki-tô giáo hãy “làm điều
thiện và không sợ hãi trước bất cứ nỗi kinh hoàng nào” – x. 1Pr 3, 6 – rõ ràng không phải
là một lời khuyên phục tùng một cách cam chịu).
Hai ví dụ trên đây đề
ra một khuôn mẫu của việc làm chứng can đảm và sự đau khổ cứu độ là trách nhiệm
của mọi ki-tô hữu. Cho dù có bị nhạo báng và nghi ngờ, người ki-tô hữu phải
tiếp tục sống một đời sống trung thực, “không
lấy ác báo ác hay lấy lời nguyền rủa đáp lại lời nguyền rủa” (1Pr 3, 9). Họ được kêu gọi để “chúc phúc” chứ không phải để đáp lại
bằng sự thù nghịch (x. 1Pr 3, 9). Họ phải sống mà không sợ hãi vì không ai có thể thực sự
làm hại một người làm điều phải lẽ (x. 1p 3, 13-14). Một câu đáng ghi nhớ về lời dạy làm chứng
trong thư 1Pr:
“Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về
niềm hy vọng của anh em. Nhưng phải trả lời cách hiền hòa và với sự kính
trọng.”
(1Pr 3, 15-16a)
Thần học chứng tá được triển khai trong thư 1Pr là một cống hiến
quan trong cho khái niệm truyền giáo trong Tân Ước. Tuy trong thư ta không thấy
nói về việc rao giảng lưu động, nhưng thực sự ta thấy có sự nhấn mạnh rằng các
thành viên cộng đoàn cần phải quay các mối quan tâm và dấn thân của họ ra bên ngoài cộng đoàn. Họ không được rút
vào trong cái kén tự vệ nhưng phải tham gia vào các tổ chức xã hội họ đang
sống, và ở đó họ phải làm chứng một cách không sợ sệt bằng các việc lành của
họ.
2. Sách
Khải Huyền: Chứng tá tiên tri
Tuy khác nhau triệt để
về hình thức và văn phong, nhưng sách Khải Huyền và thư 1Pr lại có chung một
mối quan tâm là việc làm chứng về niềm tin Ki-tô giáo.
Tương phản với giọng
điệu thuyết giảng của 1Pr, sách Khải Huyền mang hương vị cánh chung và tiên
tri. Tác giả, thánh Gioan Tông đồ, chọn hình thức một “lá thư” gửi cho các giáo
hội ở Tiểu Á; tuy nhiên, trong phần thân của tác phẩm, ngài sử dụng các hình
ảnh khải huyền để xây dựng viễn tượng của lịch sử thế giới.
Trong bối cảnh các giáo
hội tại Tiểu Á phải đối phó với những thử thách không những đến từ bên ngoài
(như việc tôn thờ hoàng đế) mà cả từ bên trong (những “lời vu khống của những kẻ xưng mình là Do-thái” – Kh 2, 9; những xung đột nội
bộ, từ những kẻ “đã để mất tình yêu thưở
ban đầu” – Kh 2, 4 – những kẻ “chẳng lạnh mà
cũng chẳng nóng – Kh 3, 15 – những kẻ đã trở nên giàu có và tự mãn – Kh 3, 17, từ những thầy dạy cho
phép tín hữu “ăn đồ cúng và làm chuyện
gian dâm” – Kh 2, 14...), sách Khải Huyền của thánh Gioan Tông đồ khuyên người tín
hữu phải sống một nếp sống trung thực và dũng cảm; người tín hữu được mời gọi
làm chứng về Nước thiên Chúa. Ơn gọi chứng nhân này mang tính anh hùng và ngôn
sứ. Đấu trường là một sân khấu hoàn vũ, bao gồm toàn thể lịch sử tương lai với
điểm quyết định là sự giải quyết cuộc chiến giữa thiện và ác. Đấu trường
trước mắt là thế lực của đế quốc Rô-ma; nhưng ẩn đằng sau cuộc đấu tranh này là
cuộc chiến đấu hoàn vũ giữa Thiên Chúa và Sa-tan.
Thánh Gioan khẳng định
rõ ràng rằng ơn cứu độ phổ quát được Thiên Chúa dự định từ ban đầu đã được thực
hiện bởi cái chết và sự sống lại của Đức Giê-su Ki-tô. “Con Chiên đã bị giết” đã được tung hô như là Đấng đã lấy máu mình
mà chuộc về cho Thiên Chúa những người “thuộc
mọi chi tộc và ngôn ngữ, thuộc mọi nước mọi dân” và đã “làm cho họ thành một vương quốc, thành những tư tế, để phụng thờ Thiên
Chúa chúng ta, và họ sẽ làm chủ mặt đất này.” (Kh 5, 9-10)
Ngôn ngữ khải huyền của
thánh Gioan không làm cho người ta có cảm giác ngài chối bỏ thế giới này để
hướng đến một “trời mới đất mới” (Kh 21, 1); ngược lại, quan tâm
sâu xa nhất của ngài là về thế giới này
và số phận cuối cùng của nó. Nhưng, trong khi thư 1 Pr kêu gọi làm chứng bằng
việc tham gia vào các lãnh vực xã hội
và chính trị, thì sách Khải Huyền lại kêu gọi làm chứng bằng việc rút lui khỏi các lãnh vực đó. Tuy nhiên
điều này không làm cho sách Khải Huyền bị coi là có quan điểm hoàn toàn xuất
thế: các tín hữu xa tránh xã hội là một hành vi chứng tá ngôn sứ cho xã hội và
vì xã hội; họ phải anh hùng từ chối thỏa hiệp với một hệ thống mà họ coi là
đứng về phe các thế lực của tội lỗi và sự chết; họ phải kiên trì tin tưởng vào
một viễn tượng hy vọng cho thế giới, một sự biến đổi từ tình trạng đau khổ và
bất công thành một trái đất tốt đẹp và hòa bình.
3. Các
Thư Mục Vụ: 1 và 2 Ti-mô-thê và Ti-tô
Rất có thể các thư Mục
Vụ được viết xấp xỉ cùng thời kỳ với các sách Tin Mừng với mục đích chuyên biệt
là nhắc nhở các vị lãnh đạo cộng đoàn về trách nhiệm trông coi nội bộ giáo đoàn
của họ và khích lệ họ chu toàn nhiệm vụ.
Tuy tập trung vào các
mối quan tâm về nội bộ, không có nghĩa là các thư Mục Vụ không nói gì về vấn đề
truyền giáo; chúng cũng góp phần, tuy là gián tiếp, cho một nền thần học truyền
giáo tổng thể của Tân Ước.
a. Về ơn cứu độ phổ
quát
Ta tìm thấy trong các
thư Mục Vụ những đoạn phản ánh chân trời hoàn vũ của ơn cứu độ, như:
-
1Tm 3, 16: “Đức Ki-tô xuất
hiện trong thân phận người phàm, được Chúa Thánh Thần chứng thực là công chính;
Người được các thiên thần chiêm ngưỡng, và được loan truyền giữa muôn dân;
Người được cả hoàn cầu tin kính, được siêu thăng cõi trời vinh hiển.”
-
Tt 2, 11: “Quả thế, ân sủng
của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người.”
-
2Tm 4, 17: “Người đã ban sức
mạnh cho tôi (Phao-lô), để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả
các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng.”
b. Gương sáng của thánh
Phao-lô
Nhiều nhà nghiên cứu
cho rằng các thư Mục Vụ không phải do chính thánh Phao-lô viết, nhưng đã được
viết vào một thời kỳ rất lâu sau Phao-lô, khi mà Hội Thánh tập trung nhiều hơn
vào các vấn đề nội bộ. Do đó tác giả đã dùng gương sáng của thánh tông đồ tử
đạo để dạy dỗ và soi sáng cho cộng đoàn, và gương sáng đó là hình ảnh của một
tông đồ truyền giáo.
Vị tông đồ đó đã được chọn
và chỉ định để phục vụ Thiên Chúa bằng việc rao giảng Tin Mừng mặc dù trước kia
ông đã từng bắt bớ Hội Thánh (x. 1Tm 1, 12-17; 3, 16; 2Tm 1, 11; 4, 17; Tt 1, 3). Và vị tông đồ đó đã
phải chịu nhiều đau khổ khi thi hành sứ mạng của mình. Giống như Đức Giê-su
chịu đóng đinh, thánh Phao-lô chịu đau khổ vì Tin Mừng cứu độ (x. 2Tm 3, 10-11; 4, 6-8.17-18). Người tông đồ truyền
giáo (Ti-mô-thê) được khuyên hãy “thận
trọng trong mọi sự, chịu đựng đau khổ, làm công việc của người loan báo Tin
Mừng và chu toàn chức vụ của mình.” (2Tm 4, 5)
Mặc dầu hầu hết các lời
khuyên nhủ trong các thư Mục Vụ đều hướng về các vấn đề nội bộ của Hội Thánh và
như thế chúng có mục đích hướng dẫn “Ti-mô-thê” và “Ti-tô” trong vai trò lãnh
đạo cộng đoàn, nhưng cũng có phần dành cho việc chứng tá tích cực mà “cách cư xử tốt lành” có thể cống hiến cho
thế giới bên ngoài: các thành viên khác nhau trong cộng đoàn phải sống trung
thực để không gây gương mù gương xấu cho những người ngoại giáo (x. 1Tm 2, 9-10; 3, 1-7; 6, 1).
Rõ ràng các thư Mục Vụ
khẳng định ý Thiên Chúa muốn cứu rỗi mọi người, và các thư này giữ lại một ký
ức sống động về thánh Phao-lô như là một Tông đồ dũng cảm cho Dân Ngoại. Hai
yếu tố này cho phép chúng ta kết luận rằng Hội Thánh của các thư Mục Vụ luôn có
ý thức truyền giáo, mặc dầu một viễn tượng truyền giáo như thế không được diễn
tả một cách đầy đủ trong các thư đó.
4. Thư
Do-thái, thư Gia-cô-bê, thư Giu-đa và thư 2 Phê-rô
Các sách còn lại này của
Tân Ước không cung cấp nhiều tư liệu trực tiếp liên quan đến vấn đề truyền
giáo.
Thư Gia-cô-bê khuyên tín hữu sống
nếp sống trung thực, biến đức tin của họ thành những hành động tốt lành và tích
cực về công bằng và tôn trọng lẫn nhau. Tuy nhiên tác giả đã không minh nhiên
suy tư về giá trị chứng tá của các hành động tốt lành ấy.
Thư Giu-đa chỉ tập trung vào các
vấn đề nội bộ của Hội Thánh: lên án các sai lạc và lối sống dâm ô của “các kẻ
vô luân” trong cộng đoàn.
Thư 2 Phê-rô cũng tập trung vào các
tín hữu gây rối trong cộng đoàn, nhưng chủ yếu nhắm đến các sai lạc thuộc lãnh
vực đạo lý. Tác giả cũng nhắc thoáng qua việc rao giảng truyền giáo của các
tông đồ (x. 2Pr 3, 2) và việc trở lại của Dân
Ngoại (x. 2Pr 2, 20); nhưng ta thấy rõ vấn
đề truyền giáo không nằm trong chủ đích của tác giả.
Chỉ có Thư
Do-thái chứa đựng nhiều tiềm năng về truyền giáo. Tương tự lời tựa của
Tin Mừng Gioan, đoạn đầu của thư Do-thái vẽ lại vai trò hoàn vũ của Đức Giê-su:
“Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình
ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lời quyền năng của
mình mà duy trì vạn vật.” (Dt 1, 3). Như vậy, ta thấy thư Do-thái coi công trình cứu chuộc của Đức
Giê-su có một ý nghĩa phổ quát.
Tác giả thư Do-thái
cũng ý thức về sứ mạng rao giảng của cộng đoàn. Tin Mừng về “một ơn cứu độ cao quí” được truyền lại cho các tín hữu “bởi những kẻ đã được nghe” (x. Dt 2, 1-4). Tác giả cũng nói đến
cái giá mà những người rao giảng Tin Mừng và những người đón nhận Tin Mừng phải
trả (x. Dt 10, 33-34). Tuy vậy, phải nhìn
nhận rằng, ngay thư Do-thái cũng không tập trung cho một viễn tượng truyền
giáo, mà chỉ đề cập chủ yếu đến công trình cứu chuộc của Đức Giê-su và các hệ
quả của nó cho sự kiên trì của người tín hữu, chứ không thực sự chú ý đến các
vấn đề như số phận của Dân Ngoại hay trách nhiệm của tín hữu đối với thế giới
bên ngoài.
Kết luận
Các sách khác của Tân
Ước – mà chúng ta tìm hiểu trong bài số 8 này - tập trung sự chú ý vào các vấn
đề nội bộ của Hội Thánh, như trật tự, giáo lý, và các mâu thuẫn về đời sống
luân lý. Điều này có thể gợi ý rằng viễn tượng truyền giáo đã phai mờ dần khi
mà Hội Thánh ngày càng nặng về thể chế. Nhưng ý thức truyền giáo mà các sách
này hàm chứa là điều không ai có thể chối cãi, ít nữa là ý thức trách nhiệm của
người tín hữu đối với thế giới bên ngoài. Thật vậy, qua các sách này, chúng ta
hiểu được rằng không thể coi các cố gắng truyền giáo của Hội Thánh sơ thời chỉ
là bằng lời nói, mà còn bằng việc làm chứng bằng đời sống công dân
tốt lành, và ngay cả bằng việc từ chối thỏa hiệp và rút lui khỏi một số môi
trường sinh hoạt xã hội: đó cũng là chứng tá chân chính cho Tin Mừng về ơn cứu
độ phổ quát.