28
TRONG HỐC ĐÁ
Ở điếm đến, chúng ta hãy
lấy lại bản văn của thánh Phaolô đã hướng dẫn chúng ta khi bắt đầu suy tư. Điều
này sẽ giúp chúng ta tránh đề ra một phương dược không thích hợp, ở một nơi
không có thờ phượng, vì nó khác với phương dược được lời Chúa cung cấp. Thánh
Tông Đồ yêu cầu điều gì với dân ngoại, để chữa họ khỏi tội chống lại Thiên
Chúa? Phải chăng hoán cải sẽ đưa họ đến chỗ tôn vinh Thiên Chúa, như ngày xưa,
trước khi tâm trí họ ra tối tăm? Phải chăng là lại chiêm ngưỡng cách chính đáng
hơn các tinh tú và thế giới được tạo dựng, để khám phá ra Thiên Chúa và thờ phượng
Ngài? Không! Không có gì như vậy hết! Không được tìm kiếm phương dược bằng cách
trở lại phía sau, mà là nhìn về phía trước. Thánh Phaolô nói về điều này mãi sau
trong thư của ngài. Phương dược thực sự không thể tìm thấy cả trong lãnh vực tạo
dựng lẫn trong lãnh vực cứu chuộc. Sau khi trình bày công trình của Đức Kitô và
của Chúa Thánh Thần, ngài nói về sự thờ phượng (latreia) dành cho Thiên Chúa. Và sự thờ phượng mới này sẽ được thực
hiện bởi "Thần Khí Thiên Chúa" (Pl 3,3), chứ không chỉ bởi trí khôn của
con người nữa, như trong quá khứ.
Kết luận thực hành là từ
nay sự thờ phượng phải nhờ Đức Kitô: "Tôn
vinh Người trong Hội Thánh và nhờ Đức Giêsu Kitô” (Ep 3,21). Ngay cả phẩm
chất của thờ phượng cũng đã thay đổi. Đó là một thực tại mới, khác với mọi hình
thức thờ phượng trong thực hành nơi các hệ thống tôn giáo khác. Đức Kitô, Người-Chúa,
là vinh quang tuyệt vời và là lời tạ ơn hoàn hảo dâng lên Chúa Cha. Từ đây, thờ
phượng Thiên Chúa là kết hiệp trong Thần Khí với Đức Giêsu Kitô, là Đấng thờ
phượng Chúa Cha cách hoàn hảo, “mầu nhiệm
cao cả của đạo thánh” (1Tm 3,16), Đấng đã chấm dứt mọi sự vô đạo. Đó là sự
thờ phượng được dâng lên Thiên Chúa bởi một Ai đó duy nhất, Thiên Chúa và con
người trong cùng một ngôi vị, và do đó, có thể vượt qua vực thẳm bản thể học
ngăn cách giữa người thờ phượng và Đấng được thờ phượng. Tựu trung, đó là một sự
thờ phượng “xứng với Thiên Chúa”.
Như vậy, chính Đức Giêsu
và Chúa Thánh Thần, với tư cách là những ngôi Thiên Chúa, được thờ phượng. Bằng
cách thay thế từ "cầu nguyện" bằng từ "thờ phượng", chúng
ta có thể lấy lại bản văn của thánh Augustinô: "Chúa chúng ta là Đức Giêsu
Kitô, Con Thiên Chúa... là Đấng vừa thờ phượng cho chúng ta, vừa thờ phượng
trong chúng ta, và được chúng ta thờ phượng. Ngài thờ phượng cho chúng ta với
tư cách là tư tế, Ngài thờ phượng trong chúng ta với tư cách là đầu, Ngài được
chúng ta thờ phượng vì Ngài là Thiên Chúa[1]."
Như chúng ta đã thấy:
trong Tân Ước, khi ai đó muốn thờ phượng một thiên thần hoặc một tông đồ, phản ứng
tức thì của người có liên quan là hét lên: "Không! Không phải như vậy!"
Nhưng khi người phụ nữ xứ Canaan, người mù từ lúc mới sinh, và các tông đồ làm
cử chỉ này đối với Đức Giêsu ở trần gian, thì Ngài không bao giờ phản đối. Ngài
không bao giờ nói: "Đừng làm thế!" Và các tông đồ biết rõ rằng người
ta chỉ thờ phượng một mình Thiên Chúa (x. Mt 4,10), nên các ông không cho rằng
mình phải từ chối những bằng chứng thờ phượng như thế. Sự kiện đặc biệt này
càng thuyết phục hơn vì được thuật lại mà không có ý định cung cấp bằng chứng về
nó, biểu lộ rõ ràng niềm tin của Giáo Hội sơ khai vào thần tính của Đức Kitô.
Do đó, sự thờ phượng của
Kitô giáo mang tính ba ngôi. Nó mang đặc tính này trong sự phát triển và trong
tính năng động của nó, vì nó là sự thờ phượng hướng "lên Chúa Cha nhờ Chúa
Con trong Chúa Thánh Thần." Nó mang đặc tính này trong đối tượng của nó,
vì là sự thờ phượng cùng hướng lên "Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần."
Từ tất cả những điều trên,
chúng ta rút ra một số áp dụng thực tiễn. Khi xẩy ra lúc mà, dưới chuyển động
bên trong của ân sủng, chúng ta cảm thấy nhu cầu thờ phượng nẩy sinh trong
chúng ta và chúng ta thấy lời nói là không đủ, phủ phục là không đủ, ngay cả im
lặng cũng không đủ, mọi sự đều vô vị và quá ít ỏi, khi đó, đối mặt với cảm giác
bất lực này, chúng ta thấy có một lối thoát đang mở ra cho chúng ta: nhờ đức
tin, chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần (và Người chỉ mong có thế) kết hiệp
chúng ta với Đức Giêsu Kitô, và do kết hiệp với Ngài, chúng ta thờ phượng Thiên
Chúa Cha. Nếu cần, chúng ta có thể sử dụng những lời hoặc công thức phụng vụ của
Thánh lễ, là những gì diễn tả cách tuyệt vời sự thờ phượng này: "Nhờ Đức
Kitô, với Đức Kitô và trong Đức Kitô, mà mọi danh dự và vinh quang đều quy về
Chúa là Cha toàn năng, trong sự hợp nhất của Thánh Thần đến muôn đời."
Đó là thờ phượng
"trong thần khí và sự thật" mà Đức Giêsu đã nói khi trò chuyện với
người phụ nữ Samari. Nó tạo nên đại hiến
chương của sự thờ phượng Kitô giáo: "Này chị, hãy tin tôi; đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha,
không phải trên núi này hay tại Giêrusalem. Các người thờ Đấng các người không
biết, còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi
biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do Thái. Nhưng giờ đã đến – chính là lúc
này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần
khí và sự thật.”(Ga 4,21-24). Các từ "thần khí và sự thật" ở đây
chắc chắn bao gồm nhiều cấp độ ý nghĩa, một số, chủ quan hơn, liên quan đến các
tính cách chuẩn bị của con người (nội tâm, chân thành, tự do), một số khác,
khách quan hơn, đạt đến những thực tại bên ngoài con người. Mức độ cao nhất
trong số các ý nghĩa khách quan này là mức độ mà "thần khí" chỉ về
Chúa Thánh Thần và sự thật liên quan đến chính Chúa Kitô, Đấng là sự thật.
Thần khí và sự thật, Đức
Kitô đã đưa cả hai đến thế gian: đây là khả năng mới được tạo ra bởi việc Ngài
đến giữa chúng ta. Trong sách Xuất hành, chúng ta thấy trên núi Sinai, Thiên
Chúa đã chỉ cho Môsê một cái hốc đá, nơi mà khi ẩn mình, ông có thể chiêm ngưỡng
vinh quang của Thiên Chúa mà không chết (x. Xh 33,21). Chú giải đoạn văn này, thánh
Basiliô đã viết: "Đối với người Kitô hữu chúng ta hôm nay, hốc đá này, nơi
này, nơi chúng ta có thể nương náu để chiêm ngắm Thiên Chúa và tôn thờ Người,
là gì? Là Chúa Thánh Thần! Chúng ta đã học được điều ấy từ ai? Từ chính Chúa, Đấng
đã nói: “Những người thờ phượng đích thực
sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật[2]!” Vậy nếu theo một nghĩa, chúng ta là đền
thờ của Chúa Thánh Thần (x. 1Cr 6,19), thì theo một nghĩa khác, chính Chúa
Thánh Thần là đền thờ của chúng ta. Chúng ta là đền thờ nhân loại của Ngài, còn
Ngài, Ngài là đền thờ thần linh của chúng ta.
Lý tưởng của sự thờ phượng
Kitô giáo tìm thấy ở đó những viễn tượng, vẻ huy hoàng, sức mạnh và lôi cuốn biết
mấy! Trong cơn lốc điên cuồng của thế giới, ai lại không cảm thấy nhu cầu thỉnh
thoảng phải trốn vào hốc đá thiêng liêng này, để chiêm quan Thiên Chúa và thờ
phượng Ngài theo gương Môsê? Nơi tâm hồn chúng ta, chúng ta hãy khám phá ra khoảng
trống này, một loại hốc đá vô hình này, luôn sẵn sàng đón nhận chúng ta, dù
chúng ta ở đâu hay làm gì. Nơi đó, luôn luôn có thể thờ phượng Chúa Cha trong
Thần Khí và sự thật. Ngày nay, Chúa Thánh Thần ngày càng thu hút nhiều linh hồn
vào hốc đá mầu nhiệm này: một số tác giả mà chúng ta đã bắt gặp, gọi đó là “đáy
của tâm hồn”. Họ thất bại không tìm được sự bình an, khi nghĩ rằng Cha trên trời
"tìm kiếm những người thờ phượng như vậy", chờ đợi họ và mong muốn họ;
người ta có thể nói rằng Ngài thăm dò khắp mặt đất để tìm kiếm họ. Và Ngài tìm
kiếm họ để làm cho họ được thỏa mãn bằng chính Ngài, để được “Ngài cho uống thỏa thuê nơi suối hoan lạc”
(Tv 36,9).
Một trong những món quà
kỳ diệu nhất, mà việc tái khám phá Chúa Thánh Thần mang lại cho Giáo Hội ngày nay,
là sự ý thức khích lệ và hướng về việc tôn thờ Thiên Chúa hằng sống. Công cuộc
“Canh tân đặc sủng” đã bắt đầu trong Giáo Hội Công giáo với kinh nghiệm rất mạnh
về sự hiện diện của Thiên Chúa hằng sống do Chúa Thánh Thần khơi dậy. Nhóm tham
gia cuộc tĩnh tâm đầu tiên, nơi thực tế này lần đầu tiên được biểu lộ, đã gặp
nhau vào một buổi tối trong nhà nguyện trước Thánh Thể. Đột nhiên, xẩy ra một biến
cố kỳ lạ. Một trong những người tham gia đã mô tả như sau:
“Sự kính sợ Chúa bắt đầu
lan tỏa nơi chúng tôi; một loại sợ hãi thánh khiến chúng tôi không thể nhìn
lên. Ngài ở đó, cá nhân Ngài hiện diện, và chúng tôi sợ mình không thể chịu đựng
được tình yêu thái quá của Ngài. Chúng tôi thờ phượng Ngài, lần đầu tiên khám
phá ra ý nghĩa của thờ phượng. Chúng tôi đã sống một kinh nghiệm cháy bỏng về
thực tại khủng khiếp và về sự hiện diện của Chúa. Kể từ đó, một cách rõ ràng mới
mẻ và trực tiếp, chúng tôi đã hiểu được những hình ảnh về Đức Chúa, Đấng xuống trên
Sinai trong đám lửa và nói trong tiếng sấm. Chúng tôi đã hiểu kinh nghiệm của Isaia
và cách diễn tả Thiên Chúa như một ngọn lửa thiêu hủy. Theo một cách nào đó, nỗi
sợ hãi thánh này giống như tình yêu, hoặc ít nhất đó là cách chúng tôi cảm thấy
như thế. Nó là một cái gì đó cực kỳ đáng yêu và đẹp đẽ, mặc dù không ai trong
chúng tôi thấy được chút hình ảnh khả giác nào về nó. Cứ như thể thực tại cá
nhân của Thiên Chúa, huy hoàng và chói lọi, xâm nhập vào căn phòng chúng tôi
đang ở, làm tràn ngập nó cùng lúc với chúng tôi[3]."
Sự hiện diện đồng thời:
một bên là uy nghi và nhân từ nơi Thiên Chúa; bên kia là kính sợ và yêu mến nơi người chiêm ngưỡng Ngài. Lúc đó, tác
giả bản văn không biết rằng việc mô tả kinh nghiệm này, bằng những hạn từ hoàn
hảo, lấy lại những nét chính yếu về Thiên Chúa hằng sống của Kinh Thánh mà chúng
ta đã muốn trình bày ở đầu cuốn sách này.
Cùng với Giáo Hội, chúng
ta hãy cầu nguyện:
“Lậy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa không cần chúng con ca
tụng, nhựng tạ ơn Chúa lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của
chúng con không thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ, nhờ Đức
Kitô, Chúa chúng con.[4]”
[1]
Saint
Augustin, Sur le psaume 85; cf.
Humeau, p. 215.
[2] Saint Basile, Traité de l’Esprit Saint, XXVI, 62; SC 17 bis, p. 473.
[3]
Dans The Spirit and the church,
cit. (note 120) p. 16.
[4]
Sách Lễ Rôma, Kinh Tiền tụng chung
IV.