31
HỒN CHÚNG CON KHÁT VỌNG THÁNH DANH, VÀ ƯỚC MONG TƯỞNG NHỚ ĐẾN
NGÀI
Khao khát tự nhiên và
khao khát siêu nhiên hướng tới Thiên Chúa thuộc về trật tự khác nhau. Một trong
những yếu tố của sự khác biệt này ở chỗ khao khát tự nhiên là bẩm sinh, trong
khi khao khát siêu nhiên phải được đánh thức, rồi được nuôi dưỡng và phát triển.
Bằng cách nào? Bằng phương pháp cắt tỉa và loại bỏ! Đó là nghệ thuật và kỹ thuật
của nhà điêu khắc biết cách loại bỏ khỏi một khối đá cẩm thạch những phần vô dụng
và dư thừa để dần dần biến nó thành một tác phẩm nghệ thuật mà ông đã hình
thành trong trí. Cũng vậy, chúng ta phải loại bỏ nơi mình những khao khát không
cần thiết, những khao khát trần tục, để lòng khao khát Thiên Chúa bén rễ và được
củng cố.
Là vì giữa những khao
khát trần tục và khao khát Thiên Chúa hầu như không có đặc điểm chung nào. Những
khao khát trần tục, cho dù cháy bỏng đi nữa, không phải lúc nào cũng được thỏa
mãn. Còn khao khát Thiên Chúa chắc chắn sẽ được thỏa mãn, vì Thiên Chúa không
bao giờ khơi dậy một cách vô ích lòng khao khát chiếm hữu Ngài. Đàng khác, khát
vọng trần tục, một khi đạt được, làm cho người ta chán ngấy và không thỏa mãn. Khao
khát Thiên Chúa, một khi đạt được, vẫn làm cho người ta khao khát còn mãnh liệt
hơn: “Ai uống Ta, sẽ còn khát” (Hc
24,21).
Thế tại sao những khao
khát trần tục nơi chúng ta lại mạnh mẽ và có quyền lực đến vậy? Tại sao chúng
thu hút chúng ta quá dễ dàng, hơn rất nhiều so với khao khát Thiên Chúa? Bởi vì
chúng giới thiệu cho chúng ta những đồ vật có thể tiếp cận tức khắc hơn, trực
tiếp đập vào các giác quan của chúng ta và khát khao khoái lạc vốn ở trong trái
tim con người. Mặt trời lớn hơn nhiều so với trái đất và khối lượng của nó có sức
hút lớn đến mức nó có thể giữ được các hành tinh và vệ tinh ở rất xa. Tuy
nhiên, sức hút mặt trời này không kéo chúng ta về phía mặt trời; đôi chân của
chúng ta luôn dính vào trái đất. Là vì trái đất, do ở gần hơn, nên có thể chống
lại sức hút của mặt trời. Cũng xẩy ra tượng tự như vậy những gì liên hệ tới
lòng khao khát Thiên Chúa, ước muốn của cải và thú vui trần tục.
Do đó, cần phải có một nỗ
lực đưa ta tới chỗ thật tình biến câu hô của tác giả Thánh vịnh: "Bên Ngài, thế sự thật tình chẳng ham!"
(Tv 73,25) thành tiếng hô của ta. Thánh Ignatiô Antiokia tử đạo đã đạt tới chỗ
đó, khi ngài có thể viết cho các Kitô hữu ở Rôma: "Khao khát trần thế của
tôi đã bị đóng đinh vào thập giá và trong tôi không còn nồng nhiệt yêu quý vật
chất nữa, nhưng một nguồn nước sống động thì thầm tận đáy lòng tôi: Hãy đến với
Chúa Cha[1]!"
Thoạt nhìn, hai thuật ngữ nồng nhiệt và khao khát, được thánh Ignatiô nhấn mạnh,
có vẻ rất gần gũi với nhau, đến nỗi đôi khi Kinh Thánh diễn tả một trong hai tình
cảm này bằng cùng một từ. Tuy nhiên, trong thực tế, có một vực thẳm chia cách hai
bên: khao khát dẫn ra ngoài mình, nồng nhiệt của đam mê lại lôi kéo tới mình; khao
khát muốn hiến mình, còn đam mê muốn giữ lại và giữ cho riêng mình.
Dĩ nhiên, tu đức Kitô
giáo cũng biết chiến đấu để dập tắt những ham muốn, để đạt tới chỗ “vô cảm”
(impassibilité), hay nói theo ngôn ngữ được các bậc thầy tu đức Kitô giáo ưa
thích, là đạt tới chỗ “thờ ơ thánh” (sainte indifférence). Bên ngoài Kitô giáo,
người ta bắt gặp những lý tưởng có vẻ gần gũi với nhau, nhưng thực tế lại rất khác nhau. Trong Kitô
giáo, dập tắt ham muốn tự nó không phải là mục đích, động cơ không phải là ý
chí tiêu cực “chận đứng bánh xe đau khổ”. Việc gạt bỏ ham muốn nhằm đào
sâu ước muốn duy nhất, mà, một khi đã được
thỏa mãn, sẽ xoa dịu hoàn toàn cho đến muôn đời. Người ta không gạt bỏ ham muốn
để không đạt được gì, nhưng đạt được tất cả.
Đối với người Kitô hữu, chế
ngự và hy sinh những ham muốn trần tục là những phương tiện ít quan trọng hơn
là hành động tích cực của Chúa Thánh Thần. Chính Thần Khí làm nẩy sinh lòng
khao khát Thiên Chúa tận thâm tâm: “Và
Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can, biết Thần Khí muốn nói gì" (Rm
8,27). Chính Thần Khí rên siết trong chúng ta, nghĩa là Người làm cho chúng ta rên
siết bằng những tiếng rên khôn tả. Chính Người tạo ra sự hoài niệm đích thực và
sâu sắc về Thiên Chúa. Nói về sự lôi cuốn này, về tiếng rên siết hướng về quê
hương trên trời, nơi làm rõ nét điều kiện của chúng ta là những người hành
hương ở dưới đất, thánh Tông Đồ kết luận: “Đấng
đã tạo thành chúng ta vì tương lai này chính là Thiên Chúa. Người đã ban Thần
Khí cho chúng ta làm bảo chứng” (2Cr 5,5). Qua đó chúng ta hiểu, khi kết
thúc cuốn “Cuộc hành trình của tâm trí hướng
tới Thiên Chúa”, thánh Bonaventura đã có thể viết ra bản văn rất mạnh mẽ và
đầy sức gợi ý này như thế nào: "Món quà thần bí rất bí ẩn này "không
ai biết nếu người đó chưa nhận được nó", và không ai nhận được nó, nếu
không khao khát nó, và người ta không thể khao khát nó, trừ khi được lửa của Chúa
Thánh Thần, mà Đức Kitô đã mang đến thế gian, thiêu đốt đến tận xương tủy[2].”
Trong lời cầu nguyện,
chúng ta có nhiều phương tiện để bày tỏ với Thiên Chúa lòng khao khát của chúng
ta đối với Ngài. Kinh Thánh cung cấp cho chúng ta những phương tiện tốt nhất, đặc
biệt là trong Thánh vịnh. Ở trên, chúng ta đã đọc Thánh vịnh 42, với hình ảnh
tuyệt đẹp về con nai khát nước tìm đến suối trong. Đây không phải là bản văn
duy nhất. Những bản văn khác, chẳng hạn Thánh vịnh 63: ở cả dạng tiêu cực lẫn
tích cực, nó diễn tả lòng khao khát Thiên Chúa, được bày tỏ như cảm giác về một
sự thiếu vắng và như một sự hướng tới cuộc gặp gỡ:
"Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ
Ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa.
Linh hồn con đã khát khao Ngài,
Tấm thân này mòn mỏi đợi trông
Như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước”
Một Thánh vịnh khác nói
về con người “nâng” tâm hồn lên tới Thiên Chúa (Tv 25,1); tiên tri Isaia, nhân
danh toàn dân, tuyên bố: "Lạy Chúa,
chúng con trông cậy Chúa; hồn chúng con khát vọng Thánh Danh và ước mong tưởng
nhớ đến Ngài!" (Is 26,8). Đối với chúng ta và hợp với chúng ta, mỗi bản
văn này có thể trở thành một kiểu cầu nguyện vắn được thường xuyên lặp lại trong
trái tim chúng ta để thắp lại ngọn lửa khao khát.
Vào cuối cuộc hành
trình, cả chúng ta mữa, chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện nhiệt
thành của thánh Augustinô, người đã thường xuyên hướng dẫn chúng ta trong cuộc
tìm kiếm này:
“Con đã chậm trễ yêu Ngài, ôi vẻ đẹp vừa rất cũ lại vừa rất mới,
con đã chậm trễ yêu Ngài.
Này đây Ngài ở trong con mà con lại ở ngoài và đi tìm Ngài ở
ngoài, nơi mà con nhào tới, một cách trái khoáy trên những cái đẹp tại thế này,
những công trình tay Chúa làm nên. Ngài ở với con, nhưng con lại không ở với
Ngài; những vẻ đẹp ấy giữ con xa Ngài, tuy nhiên nếu chúng không ở trong Ngài,
chúng sẽ không tồn tại.
Chúa đã kêu gọi, đã la lên và đã phá vỡ sự điếc lác của con. Chúa
đã chiếu sáng, đã tỏa rạng, đã làm tan đi sự mù lòa của con. Chúa đã tỏa hương
thơm, con hít vào và hổn hển khát vọng Chúa. Con đã nếm hưởng và đói khát. Chúa
đã chạm vào con: con được hun nóng lên cho sự bình an của Chúa[3]."
Lời bạt
“TA SẼ LÀ THIÊN CHÚA CÁC
NGƯƠI!”
Bạn đọc thân mến, đến
đây chúng ta kết thúc quá trình leo núi Sinai. Tuy nhiên, mong rằng trang cuối
cùng của cuốn sách này không có nghĩa là kết thúc việc tìm kiếm của chúng ta! Đúng
hơn, nó đánh dấu sự khởi đầu. Khi tiếng nói đã tắt và lời nói im ắng, thì trong
thinh lặng, việc gặp gỡ Thiên Chúa hằng sống sẽ dễ dàng hơn. Giống như ý tưởng,
cuốn sách cũng có thể dễ dàng biến thành một bức bình phong và tấm màn che chắn
hơn là mở ra một con đường dẫn đến Thiên Chúa hằng sống. Khi viết những trang
này, bản thân tôi rất thường xuyên ý thức được mối nguy hiểm như vậy. Và có lẽ,
dù không nhận ra điều đó, tôi đã mắc sai lầm giống như họa sĩ bận tâm với chân
dung đức vua hơn là với chính đức vua của mình. Nếu vậy, tôi cầu xin Thiên Chúa
và bạn đọc tha thứ cho tôi. Diễn giải ý tưởng của một tác giả mà chúng ta đã gặp
trong những trang này, tôi nói với bạn: "Này bạn, từ giờ trở đi, như vậy
là đủ. Nếu bạn muốn đọc điều gì khác về Thiên Chúa hằng sống, bạn hãy đi, và chính
bạn hãy trở thành cuốn sách và chữ viết của Ngài[4]."
Chúng ta không thể tách
ra và lại xuống khỏi Sinai của mình mà không tiên vàn cam kết bằng một cử chỉ cụ
thể, một cử chỉ sẽ như đóng dấu vào cuộc hành trình thiêng liêng của chúng ta.
Sinai là núi nơi Chúa hiển linh mà cũng là núi của giao ước. Tại đó, Thiên Chúa
ban Lề Luật cho Môsê và ký kết giao ước mà Đức Giêsu sẽ biến đổi để trở thành giao
ước “mới và vĩnh cửu” trong máu Ngài.
Cử chỉ còn lại phải hoàn
thành sẽ là làm mới lại giao ước của chúng ta với Thiên Chúa, bằng cách lại chọn
Ngài, với tất cả ý thức và dứt khoát, làm Thiên Chúa duy nhất của cuộc đời
chúng ta. Tất cả những gì còn lại phải làm là thống nhất toàn bộ con người
chúng ta: thân xác, linh hồn, trí khôn, ý chí, tình cảm, ước muốn, quá khứ, hiện
tại và tương lai, và bằng tất cả sức mạnh quyết định mà chúng ta có thể có, được
Thần Khí nâng đỡ, Đấng "đến giúp đỡ sự
yếu hèn của chúng ta", là tuyên bố và gần như hô to lên câu không thể
thay đổi: "Tôi muốn Thiên Chúa!"
Cùng với Thiên Chúa, chúng
ta cũng đón nhận mọi ý muốn của Người, được bày tỏ trong các điều răn và trong
Phúc âm của Đức Giêsu, bằng cách lặp lại lời cam kết long trọng của dân chúng ở
Sinai: "Tất cả những gì Đức Chúa đã phán,
chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo” (Xh 24,7). Nhân dịp này, chúng ta có thể
biến thành của chúng ta lời cầu nguyện tuyệt vời mà các anh em Tin lành theo truyền thống Giám lý (Méthodiste) có thói
quen đọc cuối nghi thức dự liệu cho việc đổi mới giao ước: "Con không còn
là của con nữa mà là của Chúa. Xin đặt con nơi nào Chúa muốn, kết hợp con với
người làm Chúa hài lòng; cho con biết hành động hoặc chịu đựng, sử dụng con hoặc
gạt con ra; cho con được đưa lên cao vì Chúa, hoặc hạ xuống thấp vì Chúa; xin làm
cho con được lấp đầy hay trống rỗng; cho con có mọi sự cần thiết hoặc không có
gì cả. Một cách tự do trong tâm tình vui mừng, con đặt mọi sự theo ý Chúa và
theo sự xếp đặt của Chúa[5]."
"Các ngươi sẽ là dân của Ta. Còn Ta, Ta sẽ là
Thiên Chúa các ngươi" (Ed 36,28), đó là công thức cổ điển của giao ước.
Hạnh phúc biết bao khi khám phá ra sức mạnh của tính từ sở hữu: "của Chúa".
Thiên Chúa là của chúng ta! Thiên Chúa hằng sống, Đấng mà chúng ta, "như
thể mò mẫm", đã tìm cách khám phá trong những trang sách này, chính là
"Thiên Chúa của chúng ta"; Ngài thuộc về chúng ta! Ngài là "của
tôi" hơn ngôi nhà tôi đang sống, hơn người phụ nữ tôi lấy làm vợ, hơn những
đứa con do tôi đã sinh ra, là của tôi hơn cả thân thể tôi, hơn chính cuộc đời
tôi. Ngài "thâm sâu với tôi hơn sự thâm sâu của chính tôi[6]."
Hình thức sở hữu này là
hoàn hảo nhất, bởi vì nó là một sở hữu nội tại chứ không ngoại tại, nó là sở hữu
Đấng chiếm hữu chúng ta. Chủ sở hữu thực sự của một đồ vật hay của một người là
"người hưởng lợi" về vật hay người đó, người có thể định đoạt và hưởng
thụ vật hay người đó. Thế mà thực sự “sự vui hưởng Thiên Chúa” (frui Deo) này được hứa ban cho chúng ta
đến muôn đời.
Ai sẽ có thể diễn tả mầu
nhiệm ân sủng này? Thiên Chúa "là" Thiên Chúa, nhưng thụ tạo thì “có”
Thiên Chúa. Có thể nói, sự khác biệt giữa chúng ta và Thiên Chúa rút lại là sự
khác biệt giữa là và có. Không ai, trừ một mình Thiên Chúa, có thể tuyên bố:
"Tôi, tôi là Thiên Chúa", nhưng tất cả chúng ta đều có thể quả quyết
nếu muốn: "Tôi, tôi có Thiên Chúa!" Thiên Chúa là của tôi." "Lạy
Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa của
con!" (Tv 63,2) Đó là niềm vui "của thụ tạo", niềm vui thiếu
vắng nơi những ai không muốn có Thiên Chúa,
nhưng muốn mình là Thiên Chúa.
Theo một nghĩa nào đó,
chúng ta hạnh phúc hơn Thiên Chúa. Thiên Chúa không có một Thiên Chúa ở trên mình
để ngưỡng mộ và có thể tự hào, một Thiên Chúa để thổ lộ những lời phàn nàn. Còn
chúng ta, chúng ta có Ngài! Nhưng khi suy nghĩ sâu hơn về tất cả những điều đó,
chúng ta có thể thấy rằng điều vừa nói không hoàn toàn chính xác, bởi vì Thiên Chúa
cũng có một Đấng để yêu thương, ngưỡng mộ, một Đấng để vui mừng và khiến cho
mình không còn cô độc. Đúng vậy, Thiên Chúa hằng sống vừa là một vừa là ba:
Chúa Cha có Chúa Con, Chúa Con có Chúa Cha và cả hai đều có Chúa Thánh Thần.
Sau khi nghe Thiên Chúa
kêu gọi ông trên Sinai: "Hãy lên với ta!", giờ là lúc Môsê nhận được
một mệnh lệnh khác: "Hãy đi xuống! Rồi
lại trở lên, đem theo Aaron với ngươi" (Xh 19, 24). Cũng những lời ấy
giờ đây nói với chúng ta. Chúng ta phải “kể lại" Thiên Chúa hằng sống cho người
khác và làm cho họ cũng mong muốn lên núi Sinai. “Aaron” của chúng ta, mà chúng
ta sẽ bắt đầu với ông, rất có thể là người bạn đồng hành sống gần chúng ta, người
cộng tác này hay người nào khác mà Thiên Chúa đặt định trên con đường chúng ta
đi. Sinai, người ta một mình leo lên lần đầu tiên; lần thứ hai cùng leo với một
người khác, không còn là một người leo núi đơn thuần, nhưng là một hướng dẫn viên
cho người khác.
Có lời chép: “Khi Môsê từ núi Sinai xuống, ông không biết
rằng da mặt ông sáng chói” (Xh 34,29). Ông không biết điều đó, nhung những
người khác thì biết, và từ giờ trở đi ánh sáng huyền bí này nơi khuôn mặt và
đôi mắt của Môsê cho dân Israel biết về Thiên Chúa hằng sống đang đi giữa họ:
bóng tối và hình ảnh nhất thời, mong đợi và loan báo vinh quang Thiên Chúa sẽ tỏa
sáng trên một khuôn mặt khác, khuôn mặt của Đức Kitô (x. 2Cr 4,6).
Cũng như trước lúc chia tay
khi kết thúc một chuyến hành hương đi chung với nhau, vốn là nguồn gốc một sự
hiệp thông sâu xa của tình bạn giữa những người tham gia, giờ đây chúng ta hãy
trao đổi với nhau lời chào từ biệt biết rất đơn giản này và, trong trường hợp của
chúng ta, đúng theo nghĩa đen: “Tạm biệt Chúa”, tạm biệt Thiên Chúa hằng sống, cho
đến muôn đời, chúng ta sẽ không bao giờ xa cách Ngài nữa. Ở gần Ngài, chúng ta
sẽ không cần sách vở hay lời nói nữa. "Bây
giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt"
(1Cr 13,12).
Chúng ta hãy kết thúc bằng
lời cầu nguyện mà Giáo Hội dâng lên Thiên Chúa trong ngày lễ Hiển Linh:
"Lạy Chúa, chúng con đã nhận biết Chúa nhờ đức
tin dẫn lối đưa đường, xin dủ lòng thương đưa chúng con về chiêm ngưỡng thánh
nhan vinh hiển. Nhờ Đức Giêsu Kitô… Amen".
Lời nói đầu.......................................................... 5
01. Trở về với chính sự
vật................................. 11
02. Thiên Chúa, cảm thức
về một sự hiện diện.... 20
03. Khi con tìm kiếm
Chúa,
chính là hạnh phúc con kiếm tìm.................. 31
04. Mầu nhiệm đáng sợ và lôi cuốn..................... 42
05. Ta ghét các công việc của ngươi,
còn ngươi, Ta yêu
ngươi.............................. 51
06. Thiên Chúa – Núi Đá vĩnh cửu...................... 60
07. Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa 70
08. Hãy trở vào bên trong bạn........................... 80
09. Lạy Chúa, Chúa là ai và con là ai?................ 87
10. Môsê đã vào trong đám mây........................ 94
11. Đứng gác trên tường lũy............................ 101
12. Phúc cho ai có tâm hồn rong sạch
vì họ sẽ được nhìn
thấy Thiên Chúa............ 110
13. Hãy ra ngoài và đứng trên núi trước mặt
Thiên Chúa................................................ 117
14. Tôi muốn Thiên Chúa................................. 125
15. Lạy Chúa tể hoàn vũ, con tạ ơn Ngài.......... 135
16. Một dòng lửa tràn trề................................. 146
17. Những vũ khí chiến đấu của chúng ta......... 158
18. Biết Thiên Chúa chính là nhận ra Ngài......... 163
19. Một Thiên Chúa bị khuất phục.................... 171
20. Thiên Chúa của Abraham và TC của
các triết gia............................................... 179
21. Các ông giết một Thiên Chúa đã chết.......... 188
22. Sự thật và tìm kiếm................................... 200
23. Đức tin không kết thúc ở các công thức...... 207
24. Ai trong chúng ta có thể đúng vững
trong lủa hỏa hào
muôn kiếp?.................... 217
25. Hãy để cho Thiên Chúa được tự do............. 225
26. Thần Khí ban sự sống................................ 231
27. Nhu cầu thờ phượng.................................. 239
28. Trong hốc đá............................................. 247
29. Hãy kính sợ Thiên Chúa và tôn vinh Người.. 256
30. Khao khát Thiên Chúa................................ 263
31. Hồn chúng con khát vọng Thánh Danh
và ước mong tưởng nhớ
đến Ngài............... 272
Lời bạt : Ta sẽ là Thiên Chúa
các ngươi............. 278
Hầu hết các hành trình thiêng
liêng cổ điển không thể thực hiện được đối với con người thời nay, những người ít
được đào tạo lên các mức độ suy tư, nhưng lại
được các bằng chứng lịch sử hoặc hiện sinh thu hút.
Nhưng "Ai được lên núi Chúa?" (Tv 24,3).
Sinai hiện tại của chúng ta, tức ý nghĩa của Thiên Chúa hằng sống đối với thời
đại chúng ta, là gì? ”Đọc lại hành động của Thiên Chúa chính là “trở về với chính những sự vật”, là đi thẳng
vào chính thực tại là nền tảng của mọi sự", trong "ân sủng và tự
do", để xây dựng một đức tin trên cái mới và cái cũ, trên tiếng nói của
người thời xưa và tiếng nói của người thời nay.
Tác giả mời gọi chúng ta
làm một "cuộc hành trình thánh gặp gỡ Thiên Chúa hằng sống",
một cuộc hành trình ghi dấu bằng "những biến đổi nội tâm", nhắc lại lịch
sử tư tưởng phương Tây: từ các Giáo Phụ cho đến thế kỷ XX, Sartre, Clavel, Hồng
y Newman, v.v. Như vậy, tác giả khám phá ra
những dấu vết thu hẹp chân trời của
tư tưởng hiện đại về con người.
Bản văn này có tính chất
mới mẻ, không phải là một suy tư thần học nhưng là suy tư về một hành trình lột
xác để thực sự sống kinh nghiệm về Thiên Chúa, theo bước chân Môsê, người có lòng
khao khát cháy bỏng nhờ lời cầu nguyện tôn thờ: “Tất cả đời sống người Kitô hữu
là một sự khao khát thánh... Khao khát càng mở rộng con tim chúng ta, chúng ta
càng làm cho nó có khả năng đón nhận Thiên Chúa" (thánh Augustinô).
[1]
Saint Ignace d’Antioche, Lettre
aux Romains, 7, 2; cf. SC 10, p. 261.
[2] Saint Banaventure, Itinéraire de l’esprit vers Dieu, VII, 4; cf. trad. H. Dunéry,
Paris Vrin, 1960, p. 103.
[3]
Saint Augustin, Confessions,
X, XXVII, 38; BA t.14, p. 209.
[4] cf. Ane Silesius, Le pèlerin chérubinique, VI, 263; tr. Munier, Paris, 1970.
[5] cf. John and Charles Wesley, Selected Writings and Hymns, Paulist
Press, New York 1981, p. 387.
[6]
Saint Augustin, Confessions
III, vi, II; cf Ba t. 13, p. 383.